Thứ Ba, 04/06/2024 10:02

NHỮNG YẾU TỐ TÂM LINH – PHONG THỦY CẦN CHÚ Ý KHI LẬP QUY HOẠCH THỦ ĐÔ HÀ NỘI THỜI KỲ 2021-2030, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2050

Hoàng đế Lý Thái Tổ là người đầu tiên, vào đầu năm 1010, trong “Chiếu dời đô”, nêu ra nguyên lý cho việc thiết lập Thành phố Thủ đô Hà Nội ở thời nhà Lý - khi đó gọi là Kinh đô Thăng Long bằng câu văn Hán ngữ: “Tiện giang sơn hướng bội chi nghi” (Tiện hình thế hướng (mặt) ra sông, tựa (lưng) vào núi).

Hoàng đế Lý Thái Tổ là người đầu tiên, vào đầu năm 1010, trong “Chiếu dời đô”, nêu ra nguyên lý cho việc thiết lập Thành phố Thủ đô Hà Nội ở thời nhà Lý - khi đó gọi là Kinh đô Thăng Long bằng câu văn Hán ngữ: “Tiện giang sơn hướng bội chi nghi” (Tiện hình thế hướng (mặt) ra sông, tựa (lưng) vào núi).

Yêu cầu phong thủy học đó xuất phát và liên quan đến thuật ngữ và việc tìm kiếm, lựa chọn một cao điểm (thường là một quả núi) và một vùng nước (thường là một dòng sông), gọi là “chẩm” (tức: cái gối) và “án” (tức: cái bàn), lập thành cấu trúc “tiền án hậu chẩm” (tức phía trước là chỗ để bầy biện, mé sau là chỗ gối tựa vào), làm cơ sở phong thủy học cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của một địa bàn, một khu vực hành chính - cư dân…

Từ đây đã hình thành một thuật ngữ, khái niệm và thực thể là “Cặp biểu tượng núi - sông” rất đặc biệt, vì không những là hình tượng tiêu biểu của một địa phương, mà còn là cơ sở (“lý do tồn tại”). Tức là, khởi thủy, người và việc thiết lập nên địa phương đó đã dựa vào hình thế của quả núi và dòng sông mà tạo dựng nên thực thể sản phẩm chính là địa phương đó. Do vậy mà “Cặp biểu tượng núi - sông” luôn được “linh thiêng hóa”, trở thành có “tính thiêng”, hơn thế trở thành có bản chất là sự linh thiêng, làm căn cứ tâm cho địa phương đó; có nghĩa là trụ cột tâm linh - phong thủy học ở nơi chốn đó.

Ví dụ, thì, nếu xứ (thành phố, cố đô) Huế có “Cặp biểu tượng núi - sông” là sông Hương - núi Ngự, thì Ninh Bình có núi Thúy - sông Vân, Nam Định có non Côi - sông Vị, xứ Nghệ có núi Hồng - sông Lam, Quảng Ngãi có núi Ấn - sông Trà… Vậy Hà Nội có “Cặp biểu tượng núi - sông” gì? Trụ cột tâm linh - phong thủy học của Hà Nội và của việc quy hoạch, làm quy hoạch cho Hà Nội là chọn lựa và dựa vào quả núi với dòng sông nào? Đây là vấn đề có lịch sử nhiều lớp lang, theo dòng lịch sử nghìn năm của Hà Nội.

Ở vào những thế kỷ đầu Công nguyên, khi vùng nội thành Hà Nội (gồm 4 quận: Ba Đình, Hoàn Kiếm, Đống Đa, Hai Bà Trưng thời gian giữa thế kỷ 20) còn lầy lội, thì một “doi đất ven sông” đã tự nhô đội lên thành một cao điểm gọi là Núi Nùng (hiện là ở chính giữa Khu di tích Hoàng thành Thăng Long). Núi Nùng đã được “thiêng hóa” thành núi Long Đỗ (rốn Rồng) và được cho là - như nhiều thư tịch cổ viết, có một “huyệt đạo” từ đỉnh núi ăn sâu xuống tận lòng đất và thông lên tận trời cao.

Những người Hà Nội đầu tiên đã chọn Núi Nùng làm nơi định cư, lập ngôi làng “Hà Nội gốc đầu tiên” có tên “hương Long Đỗ”. Người đứng đầu “hương Long Đỗ” là già làng họ Tô tên Lịch vì có công lập làng trên Núi Nùng, lại ăn ở hiền lành, hòa hợp, hay cứu giúp dân làng khi gặp khó khăn, nên lúc mất được tôn làm Thành Hoàng làng và được lập đền thờ ngay trên đỉnh núi.

Có một dòng sông, chảy vòng quanh núi và hương Long Đỗ, khi đó là nguồn nước sinh hoạt và đường lối đi lại (bằng thuyền bè) của dân làng (đến thế kỷ 19 được dùng một đoạn làm hào nước bảo vệ phía Bắc Thành cổ Hà Nội, và hiện nay đã được “cống hóa” dưới lòng đường Phan Đình Phùng), vì gắn bó mật thiết với Núi Nùng, nên trở thành con sông duy nhất mang tên người ở trong miền là sông Tô Lịch, gọi tắt là sông Tô.

Như vậy, “Cặp biểu tượng núi - sông” và trụ cột tâm linh - phong thủy học của Hà Nội thời nguyên thủy với “quy hoạch” là một điểm tụ cư dạng làng mạc chính là Núi Nùng - sông Tô.

Đến những thế kỷ thứ Bảy - thứ Mười, khi các Kinh lược sứ (Tiết độ sứ) của những triều đại nhà Tùy - nhà Đường từ phương Bắc sang xâm lược và đô hộ, chọn vị trí hương Long Đỗ làm tâm điểm để xây dựng thành quách, bao rộng ra xung quanh làm đầu não của bộ máy thống trị ngoại bang, như: Khâu Hòa xây Tử thành, Trương Bá Nghi xây La Thành, đặc biệt là Cao Biền xây Đại La thành (có chu vi (lấy con số tròn) là 6km vào năm 866) thì “quy hoạch” của Hà Nội ở cuối thời đại Bắc thuộc và chống Bắc thuộc với dạng thức một vòng thành quách, vẫn có “Cặp biểu tượng núi - sông” cùng trụ cột tâm linh - phong thủy học là: Núi Nùng - sông Tô.

Đến buổi đầu Lý Thái Tổ khai sinh kinh đô Thăng Long, khai nghiệp triều đại nhà Lý, khai sáng nền văn minh Đại Việt - văn hóa Thăng Long (từ năm 1010 đến năm 1014), khi tòa thành Đại La chu vi 6km của Cao Biền (lời “Chiếu dời đô” gọi là “Cao Vương cố đô Đại La thành”) được chuyển hóa thành kinh đô Thăng Long, thì lúc đó “quy hoạch” vùng đất đứng đầu nước Việt vẫn có “Cặp biểu tượng núi - sông” và vẫn dựa vào trụ cột tâm linh - phong thủy học là: Núi Nùng - sông Tô.

Nhưng đến năm 1014, vì thấy bất tiện khi cả vua quan lẫn dân chúng đều sinh hoạt chung trong cùng một vòng thành, Lý Thái Tổ mới cho đắp thành rộng ra ngoài, bao ra xung quanh. Tòa thành đang có chu vi 6km có một vòng thành mới có chu vi lên tới 30km để dân chúng ở đó. Việc quy hoạch mở rộng kinh thành này, khiến kinh đô Thăng Long có 2 vòng thành lồng nhau (Nhị trùng thành quách). Và đến năm 1028, khi hoàng đế kế vị Lý Thái Tông dẹp xong “Loạn Tam vương”, đã cho đắp thêm một vòng thành nhỏ nhưng nghiêm cẩn hơn, sát quanh ngọn núi thiêng Nùng Sơn - Long Đỗ, nằm bên trong vòng thành 6km cho hoàng đế và hoàng gia sinh hoạt ở đó, thì lúc này hoàn chỉnh quy hoạch “Tam trùng thành quách” (3 vòng thành lồng nhau Cấm thành, Hoàng thành, Kinh thành) của kinh đô Thăng Long.

Điều đáng chú ý, quy hoạch “Tam trùng thành quách” này của Hà Nội từ đời vua Thái Tông nhà Lý đến những thời sau đều được các đời nhà Trần, nhà Lê, nhà Mạc, nhà Tây Sơn kế tiếp vận hành, vẫn lấy Núi Nùng - Long Đỗ làm biểu tượng và trụ cột tâm linh - phong thủy học, nhưng sông Tô thì đã thu vào giữa nên, thay thế cho sông Tô ở cặp biểu tượng núi - sông và trụ cột tâm linh - phong thủy học của Hà Nội từ đây là: sông Nhị (Nhị Hà, Nhĩ Hà, Hồng Hà…) với tên gốc là: Sông Cái.

Với cặp biểu tượng núi - sông và trụ cột tâm linh - phong thủy học mới Núi Nùng - sông Nhị này, hai chữ tên gọi của Hà Nội đã được hiểu theo đúng với nghĩa đen là “ở trong sông”:

“Nhị (Nhĩ) Hà quanh bắc sang đông

Kim Ngưu, Tô Lịch là sông bên này”.

Đây chính là thực tế của vùng “tỉnh thành Hà Nội” là trung tâm, đầu não của một “tỉnh Hà Nội” thời nhà Nguyễn (thế kỷ thứ XIX, bắt đầu từ năm 1831), thuộc đời trị vì của hoàng đế Nguyễn Minh Mạng, gồm 4 phủ, 15 huyện, ở trong sự quây lại của 2 dòng sông lớn sông Cái (sông Hồng) và sông Đáy (sông Hát). Phủ Hoài Đức gồm 2 huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận, là đơn vị hành chính của “tỉnh thành Hà Nội” thời nhà Nguyễn, chính là địa bàn của Hà Nội từ đời vua Lý Thái Tông đến các đời nhà Trần, Lê, Mạc, Tây Sơn (từ thế kỷ thứ XI đến thế kỷ thứ XVIII), có quy hoạch đất đai ở trong sự quây lại của 3 dòng sông: Nhị Hà, Kim Ngưu và Tô Lịch với cặp biểu tượng núi - sông và trụ cột tâm linh - phong thủy học là: Núi Nùng - sông Nhị.

Núi Nùng vẫn luôn là yếu tố tâm linh - phong thủy học trụ cột, trung tâm của Hà Nội và quy hoạch Hà Nội suốt trong thời gian 8-9 thế kỷ này. Thậm chí, thế kỷ thứ XIX, khi tỉnh thành Hà Nội 2 lần thất thủ về tay người Pháp (vào năm 1873 và năm 1882), cần “động viên tinh thần” người Việt nói chung, người Hà Nội nói riêng, đã có bài “Hà Thành chính khí ca”, thì, song song với tác phẩm này, “Nùng Sơn Chính Khí” (Khí thiêng chính thống của Núi Nùng) vẫn là câu nói cửa miệng của mọi người.

Sang thời Pháp cai trị và “khai hóa” (từ cuối thế kỉ 19 đến nửa đầu thế kỉ 20), đã xóa bỏ quy hoạch “Tam trùng thành quách” truyền thống của Hà Nội, để thay vào đó quy hoạch “Nội thành - ngoại thành” (kiểu Pháp). Cũng đồng nghĩa đã xóa bỏ trên đỉnh Núi Nùng dấu tích của các tòa chính điện Càn Nguyên và Thiên An thời Lý Trần, Kính Thiên thời Lê, hành cung Long Thiên thời Nguyễn, thay bằng Chỉ huy sở pháo binh thuộc địa xây 2 tầng theo “kiểu Tây”. Nhưng ở giữa và quanh khu “Nội thành Hà Nội” lúc bấy giờ, người Việt Nam nói chung và người Hà Nội nói riêng vẫn luôn nhớ về “Cặp biểu tượng núi – sông” và những trụ cột tâm linh - phong thủy học của Hà Nội là Núi Nùng - sông Tô và Núi Nùng - sông Nhị.

Chỉ đến gần đây, sau 4 lần liên tiếp điều chỉnh địa giới Hà Nội vào nửa cuối thế kỉ 20, đặc biệt là sau lần mở rộng địa giới Hà Nội năm 2008 với rất nhiều đất và người phía Tây được tích hợp vào Hà Nội, thì sông Hồng từ chỗ chảy viền phía Đông đã chạy dọc gần giữa Hà Nội, khiến Hà Nội từ chỗ là “Đô thị một bờ sông” đã dần có sắc diện của “Đô thị hai bờ sông”, là cái “án” quan trọng hơn tất cả các dòng nước khác để Hà Nội và quy hoạch Hà Nội hướng tới. Nghĩa là sông Hồng (Nhị Hà xưa) vẫn giữ được vị thế truyền thống tiêu biểu của phần nước thiêng trong cặp biểu tượng núi - sông, vẫn là dòng chảy tâm linh - phong thủy học trụ cột của Hà Nội, nhưng Núi Nùng không còn được như vậy. Khối núi Ba Vì sừng sững, trước và xưa kia là trụ cột tâm linh - phong thủy học lừng lẫy của Xứ Đoài (Sơn Tây, Hà Tây) thời trung cổ và cận đại, nay được tích hợp vào Hà Nội, đã lập tức trở thành vật thể linh thiêng, thay thế vị thế của Núi Nùng trong cặp biểu tượng núi - sông và bộ đôi trụ cột tâm linh - phong thủy học của Hà Nội.

Như vậy, từ đầu thế kỷ 21, đã hình thành cặp biểu tượng núi - sông và những trụ cột tâm linh - phong thủy học mới, nhưng đã sẵn có từ lâu đời là: Núi Ba Vì - sông Hồng Hà cho Hà Nội và Quy hoạch Hà Nội.

II

Trên bình diện toàn thành phố Hà Nội qua các đời đã hình thành những yếu tố tâm linh - phong thủy học có vị thế và ảnh hưởng quan trọng đến sự tồn tại, phát triển của đất và người Thủ đô như đã nói ở trên, thì ở địa bàn đã được phân chia thành quận, huyện, thị xã… của Hà Nội, đang còn tồn tại và vẫn đang phát huy giá trị tâm linh - phong thủy hóa từ những địa điểm và dòng nước riêng. Cụ thể:

Quận Ba Đình: Hai di tích cấp quốc gia đặc biệt là Đền Thủ Lệ (Đền Voi Phục) và Đền Quán Thánh (Quán Trấn Vũ, hoặc Quán Chân Vũ) - 2 tòa kiến trúc tôn giáo - tín ngưỡng, xây dựng từ thời Lý, có giá trị cắm mốc giới và trấn giữ phía Tây và phía Bắc Kinh thành Thăng Long xưa - nội thành Hà Nội về sau; Chùa Kim Sơn: Nơi từng tập kết và chôn cất thi hài các tử sĩ Tây Sơn trong trận đánh tại đồn Đống Đa năm 1789.

Quận Hoàn Kiếm: Đền Bạch Mã - di tích cấp quốc gia đặc biệt, vừa cắm mốc giới và trấn giữ phía Đông Kinh thành Thăng Long và nội thành Hà Nội về sau, đồng thời là chứng tích của sự kiện thần Tô Lịch hiển linh, đánh thắng trận chiến tâm linh với Cao Biền (năm 866); Hồ Hoàn Kiếm gắn với truyền thuyết Lê Thái Tổ trả kiếm Thuận Thiên cho Rùa Thần.

Quận Hai Bà Trưng: Đền Đồng Nhân thờ Hai Bà Trưng là di tích cấp quốc gia đặc biệt; Dấu tích đàn Nam Giao thờ Trời Đất từ các triều Lý, Lê.

Quận Đống Đa: Gò Đống Đa là gò đất tự nhiên mọc trên chiến trường Đống Đa (năm 1789) có cài chôn ở chân gò những tiểu sành đựng xương cốt cải táng của những người chết trận Đống Đa; Đền đình Kim Liên là di tích cấp quốc gia đặc biệt, cắm mốc giới và trấn giữ phía Nam Kinh thành Thăng Long xưa - nội thành Hà Nội về sau.

Quận Thanh Xuân: Gò Đống Thây, chứng tích của chiến dịch Tốt Động - Chúc Động, đánh giết quân Minh  (năm 1426).

Quận Cầu Giấy: Dấu tích chiến trường đánh giết các chỉ huy quân Pháp là Francis Garnier và Henri Rivière (các năm 1873 và 1882).

Quận Tây Hồ: Hồ Tây - Dâm Đàm thời Lý, gắn với truyền thuyết Kim Ngưu - Trâu vàng; Chùa Trấn Quốc, dấu tích di dời từ ngoài bãi sông Hồng của ngôi chùa Khai Quốc thời Lý Nam Đế; Đền Đồng Cổ, nơi tổ chức “Hội thề Trung Hiếu” thời Lý, Trần, Lê.

Quận Hoàng Mai: Cầu Voi là chứng tích của chiến dịch bao vây giải phóng thành Đông Quan (năm 1426 - 1427), nơi hy sinh và thoát nạn của các tướng Lam Sơn Đinh Lễ, Nguyễn Xí.

Quận Long Biên: Đền Ghênh, nơi liên quan đến việc mất xương cốt của Bắc cung Hoàng Hậu Lê Ngọc Hân; Chùa Bồ Đề, chứng tích liên quan đến Tổng hành dinh nghĩa quân Lam Sơn và lầu trúc chỉ huy các chiến dịch bao vây, giải phóng thành Đông Quan và chiến dịch Chi Lăng - Xương Giang, khởi nguồn của “Hội thề Đông Quan” năm 1427 ở bên kia sông.

Hai quận Nam - Bắc Từ Liêm: Đình Chèm (Trèm) thờ thánh Lý Ông Trọng; Làng Khoa bảng Đông Ngạc (Vẽ).

Huyện Đông Anh: Khu di tích Cổ Loa - Kinh đô Âu Lạc thời An Dương Vương và Kinh đô nước Việt thời Ngô Vương Quyền.

Huyện Gia Lâm: Khu di tích Phù Đổng (Hội Gióng) thờ Thánh Gióng với Di sản văn hoá phi vật thể thế giới; Làng nghề gốm sứ Bát Tràng; Hành Cung Cổ Bi - nơi chúa Trịnh Lương chuẩn bị dời đô sang đây.

Huyện Thanh Trì: Đình đền thờ Phạm Tu và Chu Văn An; Di tích trận đánh tại đồn Ngọc Hồi năm 1789; Làng Tó (Tả Thanh Oai) của “Ngô Gia Văn Phái”.

Huyện Sóc Sơn: Khu di tích quốc gia đặc biệt Sóc Sơn thờ Thánh Gióng; Núi Sóc Sơn.

Huyện Mê Linh: Đền Hạ Lôi, di tích cấp quốc gia đặc biệt, thờ Hai Bà Trưng; Nghĩa trang Thanh Tước.

Quận Hà Đông: Khu di chỉ - mộ táng Đông Sơn thời Hùng Vương Phú Lương; Khu làng cổ Đa Sĩ (Đan Sỉ, Đan Khê, Huyền Khê).

Thị xã Sơn Tây: Thành cổ Sơn Tây; Làng cổ Đường Lâm.

Huyện Ba Vì: Núi Ba Vì; Đình Tây Đằng; Đình Chu Quyến; Khu di tích Đá Chông (K9, K84); Suối vàng (Kim Khê) nơi Hai Bà Trưng trận vong.

Huyện Chương Mỹ: Núi Chúc Sơn; Chùa Trăm Gian, Di tích cấp quốc gia đặc biệt; Núi chùa Trầm.

Huyện Đan Phượng: Đình Đại Phùng, Di tích cấp quốc gia đặc biệt.

Huyện Hoài Đức: Quán Giá của Đạo Giáo; Đình Giang Xá, liên quan đến khởi nghĩa Lý Bí (năm 542).

Huyện Mỹ Đức:Khu di tích Chùa Hương, di tích cấp quốc gia đặc biệt.

Huyện Phú Xuyên: Làng nghề khảm trai Chuyên Mỹ.

Huyện Phúc Thọ: Đền Hát Môn, di tích cấp quốc gia đặc biệt, thờ Hai Bà Trưng.

Huyện Quốc Oai: Chùa Thầy (Sài Sơn), di tích cấp quốc gia đặc biệt; Đình So, di tích cấp quốc gia đặc biệt.

Huyện Thanh Oai: Chùa Bối Khê, di tích cấp quốc gia đặc biệt.

Huyện Thạch Thất: Chùa Tây Phương, di tích cấp quốc gia đặc biệt.

Huyện Thường Tín: Chùa Đậu, di tích cấp quốc gia đặc biệt.

Huyện Ứng Hòa: Đình Hoàng Xá, di tích cấp quốc gia đặc biệt.

Những địa điểm thuộc các quận, huyện, thị xã của Hà Nội vừa lược kê ở trên đã và đang là những yếu tố tâm linh - phong thủy học của Hà Nội và Quy hoạch Hà Nội là bởi có những lý do và cơ sở sau:

- Là những cao điểm, dòng chảy, vùng tụ thủy… tự nhiên, nhưng nhờ vị thế hình thái, cảnh quan, niên đại… có những nét đặc sắc, chứng minh một hoặc nhiều lần những tác động, ảnh hưởng siêu linh, đặc biệt là được trí tưởng, truyền ngôn, sách vở… qua các đời tô điểm, nên có tính linh thiêng, tức là yếu tố tâm linh - phong thủy học. Đó là trường hợp của những ngọn núi Ba Vì, Sóc Sơn, Hương Sơn…, những sông Hồng, sông Tô Lịch…, những hồ Hoàn Kiếm, Hồ Tây…

- Là những địa điểm có tuổi đời kinh niên, thường xuyên hoặc một đôi lần đã xảy ra những điều kinh dị hoặc tốt đẹp, đặc biệt là chiến trường có ít hoặc nhiều tử sĩ, nên được “thiêng hóa” trở thành yếu tố tâm linh - phong thủy học. Đó là trường hợp của những gò Đống Thây, Đống Đa, những Làng cổ Đường Lâm, Đa Sĩ, những chiến trường như Ngọc Hồi, Đống Đa, những di chỉ hoặc nghĩa trang như Phú Lương, Thanh Tước…

- Là những kiến trúc nhân tạo, nhưng nhờ sự cổ kính, to lớn hoặc cầu kỳ, đặc biệt là có chủ đề tín ngưỡng lạ, hay liên quan đến những nhiên thần hoặc nhân thần có sự tích đặc biệt, có tác động “hộ quốc tí dân”, thậm chí là xấu xa, tàn ác… Đó là trường hợp của những đình chùa đền miếu đã được nhà nước qua các đời đánh giá cao (ban sắc phong, cấp bằng công nhận hoặc được nhiều người tới thắp hương, thờ phụng, cầu khẩn như Chùa Bối Khê, Quán Giá, Thăng Long Tứ Trấn… và cả những kiến trúc không (chưa) được liệt kê ở trên như: Phủ Tây Hồ, chùa Hà…

Từ 3 phạm trù nguồn cội và tính cách của những địa điểm có tính thiêng hoặc đã thành yếu tố tâm linh - phong thủy học của Hà Nội như vừa phân tích, việc làm Quy hoạch Hà Nội có thể căn cứ vào đó mà ứng xử với nội dung và phương thức tiến hành như sau:

- Bảo tồn (bảo vệ) theo Luật Di sản: Việc bảo tồn (bảo vệ) các địa điểm có yếu tố tâm linh - phong thủy học trong khi làm Quy hoạch thường gặp các vấn đề cần được xử lý một cách thận trọng và nhuần nhị là: Quan hệ giữa bảo tồn và phát triển, nghĩa là có thể hoặc cần thiết trường hợp nào thì phải ưu tiên bảo tồn hơn là phát triển, trường hợp nào thì phát triển được chọn thay cho việc bảo tồn.

- Lựa chọn và quyết định phương hướng, nội dung Quy hoạch thích hợp hoặc tối ưu. Nghĩa là chỗ nào và hướng nào quy hoạch thành nơi dành cho văn hóa tâm linh, dành cho việc thực hành tín ngưỡng, tôn giáo; chỗ nào và hướng nào quy hoạch thành nơi cho văn hóa xã hội, văn hóa và kinh tế, du lịch; chỗ nào không dành cho các trường hợp văn hóa đó. Đặc biệt là nương theo quy luật, tiến hành song song, cân bằng hai nhiệm vụ chiến lược là dựng nước và giữ nước, chỗ nào cần dành cho quân sự - quốc phòng…/.

Nguyễn Nguyệt Thu (Tổng hợp)

  Ý kiến bình luận

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Hội nghị công bố Quy hoạch Thủ đô Hà Nội thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Điều chỉnh Quy hoạch chung Thủ đô Hà Nội đến năm 2045, tầm nhìn đến năm 2065
Hội nghị công bố Quy hoạch Thủ đô Hà Nội thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Điều chỉnh Quy hoạch chung Thủ đô Hà Nội đến năm 2045, tầm nhìn đến năm 2065

Sáng 14/01/2025, tại trụ sở Thành ủy Hà Nội, UBND thành phố Hà Nội tổ chức hội nghị công bố Quy hoạch Thủ đô Hà Nội thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, Điều chỉnh Quy hoạch chung Thủ đô Hà Nội đến năm 2045, tầm nhìn đến năm 2065.

Quy hoạch Vùng Đồng bằng sông Hồng cần phát huy, khai thác tối đa tiềm năng, cơ hội, lợi thế cạnh tranh của vùng
Quy hoạch Vùng Đồng bằng sông Hồng cần phát huy, khai thác tối đa tiềm năng, cơ hội, lợi thế cạnh tranh của vùng

Chiều ngày 07/12/2023, Hội nghị lần thứ hai của Hội đồng điều phối vùng Đồng bằng sông Hồng với chủ đề về quy hoạch vùng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã diễn ra dưới sự chủ trì của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Chủ tịch Hội đồng điều phối vùng Đồng bằng sông Hồng.

Xây dựng Quy hoạch Thủ đô xứng tầm, bảo đảm tính khả thi
Xây dựng Quy hoạch Thủ đô xứng tầm, bảo đảm tính khả thi

Sáng ngày 21/11/2023, hội thảo khoa học “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây dựng và thực hiện Quy hoạch Thủ đô Hà Nội thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050” do Thành ủy - HĐND - UBND thành phố Hà Nội phối hợp với Tạp chí Cộng sản tổ chức diễn ra tại Hội trường Thành ủy với sự tham gia của hơn 250 đại biểu.