Thứ Năm, 02/08/2018 07:15

Chuyện hiếu nghĩa của chị em Bác Hồ 

Cách đây tròn 120 năm, tại ngôi nhà trên đường Đông Ba (Thành nội Huế), Nguyễn Sinh Cung (tên Bác Hồ lúc nhỏ), cùng gia đình đau buồn tiễn biệt người mẹ hiền sớm khuya tần tảo, nhưng vắn số Hoàng Thị Loan (thân mẫu) về cõi vĩnh hằng vào dịp giáp Tết Nguyên đán Tân Sửu (10/2/1901, nhằm ngày 22 tháng Chạp năm Canh Tý).

Lập hồ sơ đề nghị xếp hạng 4 di tích gắn liền với Bác Hồ là di tích cấp quốc gia đặc biệt

Ngôi nhà lúc sinh thời Bác Hồ ở tại đường Mai Thúc Loan. Ảnh: MC

Trong cảnh đất khách quê người, lại không có mặt chồng, chỉ có duy nhất Nguyễn Sinh Cung và em trai sơ sinh Nguyễn Sinh Nhuận (còn gọi Sinh Xin), sự ra đi của người mẹ hiền năm ấy đã để lại tình cảm sâu đậm và dấu ấn khó phai mờ trong ký ức tuổi thơ chị em Bác Hồ trong khoảng thời gian Người cùng gia đình sinh sống tại kinh đô Huế.

Không quên ngày giỗ mẹ

Theo lời kể của đồng chí Vũ Kỳ- Thư ký của Bác Hồ thì cụ Đào Nhật Vinh, từng là thủy thủ tàu buôn của Pháp, người đã gặp gỡ và trở nên thân thiết với Bác Hồ từ thời Người là Văn Ba làm thuê trên tàu Pháp (1913). Đến năm 1946, cụ đã gặp lại Người là Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm nước Pháp. Sau này cụ về nước (sống tại 23 phố Nguyễn An Ninh, TP. Hồ Chí Minh). Vào năm 1977, cụ Vinh khi đó đã ngoài 80 tuổi ra thăm Lăng Bác đã kể rằng: Vào ngày chủ nhật 30/1/1921, tôi từ Boóc-đô lên Paris tráng lệ, tới ngõ Công-poanh tù mù vàng vọt. Lên cầu thang, bước tới cửa phòng anh Nguyễn, mùi hương từ trong phòng thơm ngát. Nghe tiếng gõ cửa, anh Nguyễn hé từ từ cánh cửa phòng, thấy tôi: “Ồ! Chú Vinh! Vào đi em”. Tôi bồi hồi nhìn vào cái bàn làm việc thường ngày đang là bàn thờ, hương khói nghi ngút, ngọn nến sáng lắt lay bên con gà ngậm bông hoa râm bụt ấp trên đĩa xôi…  Anh Nguyễn giọng bùi ngùi: “Hôm nay ngày giỗ mẹ anh. Hai mươi năm về trước cũng vào ngày chủ nhật 10/2/1901, tức ngày 22 tháng Chạp năm Canh Tý mẹ anh qua đời”. Anh im lặng. Tôi bật khóc, níu cánh tay anh Nguyễn. Anh trầm lắng giọng: “Bấy giờ nhà ở trong ngõ Đông Ba, Thành nội, kinh đô Huế, lúc đó cha cùng anh cả đi công việc tận ngoài tỉnh Thanh chưa về…”. Anh siết chặt bàn tay tôi, nén xúc động không nói… Tôi đứng lên để ra phố sắm lễ vật vì không biết ngày này là ngày giỗ thân mẫu của anh. Anh giữ tay tôi lại: “Chú từ phương xa đến đúng lúc anh có giỗ mẹ, là tâm hương thành lễ, không nhất thiết phải có lễ vật!”. Tôi bái lễ thân mẫu Người...

Quyết đưa di hài mẹ về với quê hương

Theo tư liệu của nhà văn Sơn Tùng, trong những lần được trực tiếp gặp bà Nguyễn Thị Thanh (chị cả Bác Hồ), Sơn Tùng được bà Thanh tâm sự về câu chuyện đích thân bà đã chuyển hài cốt mẹ mình từ Huế về Nam Đàn ra sao, bà kể:

“O ra khỏi nhà tù năm Nhâm Tuất (1922), nhưng phải quản thúc tại Kim Long, kinh đô Huế. Mẹ o, em trai của o là Nguyễn Sinh Nhuận nằm xuống đất Huế, o không  được nhìn mặt mẹ lần cuối cùng, chưa nhìn được mặt em trai một lần. Thật là nước mất nhà tan…

Trước cảnh ngộ cha phiêu bạt nơi lục tỉnh Nam kỳ một cách vô định lai hồi, em Tất Đạt đang tại tù, em Tất Thành bôn ba hải ngoại, chẳng biết ở chân trời góc biển nào! Quyết đưa di hài mẹ về cố quận. Nhưng để làm được việc hiếu này, trong cảnh ngặt nghèo này, khó lắm cháu ơi…O bị quản thúc vô thời hạn: “Nhật nhật tại dã, bất khả viễn phương”. Nhưng khi công môn, o xin về Nghệ thăm nhà, họ không hạch sách gì, còn được lời ân ưu… Nhờ vậy, o lo liệu công việc di chuyển di hài mẹ về quê thuận lợi. Việc đưa di hài mẹ về quê, o chỉ bàn bạc với dì An, em ruột mẹ và một hai người bên nội biết.

Đúng vào canh ba, đêm tháng mười năm Nhâm Tuất, chú Hồ Phi Huyền lên biểu bạch để o thực hành việc di hài cát táng từ kinh đô về Nam Đàn. Dì Hoàng Thị An lo liệu nơi cất giữ di hài cho đến khi tìm được cát địa. Mẹ Lụa dặn: Khi mở nấm mộ phải đứng tránh ngọn gió. Nước gỗ vang phải nhiều, đun sôi kỹ từ hôm trước để rửa cốt thật sạch, lau khô bằng giấy bản. Nước gỗ trầm hương, tẩm cốt rồi xếp vào vải điều, gói vuông vức lại, bọc ngoài một tấm vải đen, cất dưới đáy bị cói, trên xếp các loại thuốc viên. Hài cốt được tẩm nước gỗ trầm hương đưa đi xa, qua đò, qua tàu, xe hay gặp các loại súc vật khứu giác nhạy như chó cũng không thể bắt mùi. Về Huế, o nhờ gia đình người học trò của phụ thân o giúp việc “quán tẩy di hài” (rửa lau hài cốt)… Mọi việc làm trong âm thầm kín như bưng và trơn bọt lọt lạch…

Xong mọi việc hiếu nghĩa với mẫu thân mà o không thể nào bắt liên lạc được với phụ thân o để Người yên lòng và cậu Tất Đạt o cũng chưa gặp lại được. Mãi tới năm Canh Thìn (1940), cậu Tất Đạt mới được về quê. Cậu ở lại quê được ít lâu, cậu mời chú Hồ Phi Huyền cùng đi xem cát địa để cát táng mẫu thân của chị em o. Chú Hồ Phi Huyền, cậu Tất Đạt đi khắp từ Đông Nam sang Tây Nam dãy núi Đại Huệ, đi qua cả truông Hến, truông Băng, truông Bồn…Cuối cùng tìm được hai điểm Động Tranh và Đại Hài, về sau quyết định lấy một. Năm Tân Tỵ (1941), cậu Tất Đạt chọn Động Tranh làm nơi thiên thu an lạc tĩnh thổ cho mẫu thân.

Mùa thu Ất Dậu (8/1945), Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam mới ra đời, o ra Thủ đô thăm cậu Tất Thành, tại nhà cậu mợ Đặng Thai Mai, o có nói với cậu Tất Thành việc o chuyển di hài mẫu thân về quê, và việc o vào Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc chịu tang phụ thân năm Kỷ Tỵ (1929)…

Chuyện hiếu nghĩa của chị em Bác Hồ với mẫu thân trong hoàn cảnh “nước mất – nhà tan – gia đình ly tán” càng thêm thấm thía tình mẫu tử thiêng liêng, khiến  mỗi chúng ta vô cùng xúc động và kính phục về một gia đình vẹn toàn hy sinh cho Tổ quốc – Nhân dân. 

TƯ HIỀN

  Ý kiến bình luận

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Trồng hàng trăm cây ăn trái, cây tạo cảnh quan
Trồng hàng trăm cây ăn trái, cây tạo cảnh quan

Ngày 2/2, Đồn Biên phòng cửa khẩu (BPCK) cảng Chân Mây phối hợp chính quyền địa phương xã Lộc Vĩnh (Phú Lộc) và Trường THCS Lộc Vĩnh phát động “Tết trồng cây đời đời nhớ ơn Bác Hồ” Xuân Quý Mão 2023.