1. Thực trạng pháp luật về hoạt động hỗ trợ vốn cho thanh niên khởi nghiệp từ phía Chính phủ

1.1. Hỗ trợ vốn cho thanh niên khởi nghiệp thông qua các quỹ tài chính nhà nước

 Dựa theo nguồn hình thành, mục đích sử dụng... nguồn tài chính phục vụ cho hoạt động chi tiêu công của Nhà nước có thể được phân chia thành hai nhóm, một là quỹ ngân sách Nhà nước và hai là quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách. Trong đó, quỹ ngân sách Nhà nước sử dụng cho hoạt động hỗ trợ vốn cho thanh niên khởi nghiệp sẽ được thực hiện thông qua các khoản chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển. Việc sử dụng quỹ ngân sách Nhà nước phải tuân thủ các quy định chặt chẽ về điều kiện, trình tự, thủ tục của pháp luật ngân sách nhà nước và những quy định đặc thù.

Bên cạnh quỹ ngân sách Nhà nước, các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách là nguồn lực dồi dào cho hoạt động khởi nghiệp. Nhận thức được tầm quan trọng của các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách nhằm hỗ trợ cho hoạt động khởi nghiệp nói chung, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo (ĐMST) nói riêng, Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách tạo điều kiện thành lập và vận hành các quỹ hỗ trợ khởi nghiệp. Có thể thấy, trong những chừng mực nhất định, các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách đã trực tiếp hoặc gián tiếp phát huy được vai trò hữu hiệu trong việc hỗ trợ vốn cho thanh niên khởi nghiệp, cụ thể: (1) Các quỹ đã cung cấp sự hỗ trợ kịp thời và cấp thiết về vốn cho thanh niên khởi nghiệp; (2) Sự tồn tại và hoạt động của các quỹ đã giúp các dự án khởi nghiệp được tiếp cận dễ dàng hơn các nguồn vốn khác, như nguồn vốn từ tổ chức tín dụng; (3) Các quỹ góp phần thúc đẩy tinh thần và khả năng khởi nghiệp của thanh niên. 

            * Hỗ trợ vốn cho thanh niên khởi nghiệp thông qua Quỹ quốc gia về việc làm

            Về vị trí, Quỹ quốc gia về việc làm là quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách được thành lập từ năm 1992 nhằm bảo đảm nguồn vốn cho vay ưu đãi đối với cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ, hộ gia đình. Trước năm 2016, hoạt động vay vốn từ Quỹ nằm trong khuôn khổ Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm. Từ năm 2016 đến nay, Quỹ hoạt động theo quy định của Luật Việc làm, Nghị định 61/2015/NĐ-CP và Nghị định 74/2019/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 61/2015/NĐ-CP và Nghị định số 104/2022/NĐ-CP. Một cách khái quát, có thể thấy các quy định của pháp luật điều chỉnh hoạt động của Quỹ quốc gia về việc làm đã được ban hành tương đối đầy đủ, đảm bảo tính kế thừa và có những sửa đổi, bổ sung phù hợp với thực tiễn. Tuy nhiên, việc cho vay từ Quỹ quốc gia về việc làm vẫn còn tồn tại một số điểm hạn chế, đơn cử như: Nguồn vốn của Quỹ ngày càng nhỏ so với nhu cầu vay vốn tạo việc làm của thanh niên, người lao động; Điều kiện cho vay của Quỹ khiến cho nhiều thanh niên khó tiếp cận nguồn vốn vay.

* Hỗ trợ vốn cho thanh niên khởi nghiệp từ Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEDF)

  Vai trò của Quỹ cũng được khẳng định tại Điều 20 Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017. Triển khai Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017, ngày 10/05/2019 Chính phủ đã ký ban hành Nghị định số 39/2019/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Quỹ để thực hiện cho vay, tài trợ cho các dối tượng là doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo, doanh nghiệp tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị. Có thể thấy, việc thành lập SMEDF không những là một bước tiến quan trọng của Chính phủ trong việc tăng cường kênh hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp nhỏ và vừa mà còn được coi là một định chế tài chính nhà nước đầu tiên dành riêng cho đối tượng là doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam. Tuy nhiên, quá trình hỗ trợ vốn của quỹ cho thanh niên khởi nghiệp vẫn còn gặp nhiều khó khăn, có thể kể tới như: Trường hợp cho vay vốn từ Quỹ đòi hỏi khá khắt khe đối với doanh nghiệp; Việc xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo và tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị thời gian qua còn gặp nhiều vướng mắc, khó có thể đưa ra được các tiêu chí cụ thể, phù hợp với đặc thù và nhu cầu hỗ trợ của từng lĩnh vực hoặc từng địa phương.

* Hỗ trợ vốn cho thanh niên khởi nghiệp từ Quỹ bảo lãnh tín dụng

            Nhằm triển khai Luật Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa, năm 2017, trên cơ sở đánh giá tình hình hoạt động của các Quỹ Bảo lãnh tín dụng địa phương, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 34/2018/NĐ-CP về thành lập, tổ chức và hoạt động Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện cho thấy vai trò của các Quỹ Bảo lãnh tín dụng vẫn còn mờ nhạt. Để xem xét nguyên nhân của thực trạng này, cần nhìn nhận ở 03 khía cạnh: Thứ nhất, hạn chế từ quy định của pháp luật. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 34/2018/NĐ-CP về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ Bảo lãnh tính dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tuy nhiên, các quy định tại Nghị định 34/2018/NĐ-CP rất chặt chẽ, các Quỹ Bảo lãnh tín dụng buộc phải thực hiện các biện pháp đảm bảo, bảo toàn nguồn vốn khi cấp các hợp đồng bảo lãnh vay vốn cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, một trong những điều kiện để thành lập Quỹ Bảo lãnh tín dụng đó là “Vốn điều lệ thực có tối thiểu tại thời điểm thành lập Quỹ Bảo lãnh tín dụng là 100 (một trăm) tỷ đồng do ngân sách cấp tỉnh cấp” Đây cũng là một trong những điểm chưa hợp lý của quy định hỗ trợ về mặt tài chính. Thêm nữa, quy trình thủ tục đề nghị cấp tín dụng còn hạn chế. Thứ hai, về phía các ngân hàng thương mại. Việc tham gia góp vốn vào Quỹ Bảo lãnh tín dụng của các ngân hàng thương mại chưa thực sự hiệu quả. Thứ ba, khó khăn khi tiếp cận với Quỹ Bảo lãnh tín dụng không chỉ do quy định của Nhà nước và các tổ chức tín dụng, mà còn xuất phát từ chính các doanh nghiệp khởi nghiệp. 

1.2. Hỗ trợ vốn cho thanh niên khởi nghiệp thông qua ưu đãi tài chính của Nhà nước

Pháp luật Việt Nam hiện hành mặc dù không có quy định riêng, tập trung vào nội dung miễn, giảm thuế hay áp dụng các ưu đãi tài chính khác của Nhà nước cho thanh niên khởi nghiệp nhưng trong các quy định của pháp luật chuyên ngành đã chứa đựng những quy phạm điều chỉnh nội dung này. Từ những quy định của pháp luật, có thể thấy ở Việt Nam không có quy định riêng ưu đãi tài chính cho tất cả các chủ thể tiến hành khởi nghiệp mà các chính sách ưu đãi tài chính cho hoạt động khởi nghiệp hiện nay chủ yếu tập trung vào nhóm khởi nghiệp ĐMST. Tuy nhiên, bên cạnh điểm tương đồng với các nước về xác định nhóm đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi tài chính, nếu xét trong bối cảnh định hướng cần thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp, thúc đẩy thanh niên khởi nghiệp, có thể thấy các quy định của pháp luật Việt Nam về các ưu đãi tài chính của Nhà nước không mang tính chất thúc đẩy và hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp, với một số lý do sau: Pháp luật hiện hành chưa có quy định đặc thù về ưu đãi tài chính đối với thanh niên khởi nghiệp và những tổ chức, cá nhân đầu tư cho hoạt động khởi nghiệp nói chung, thanh niên khởi nghiệp nói riêng; Pháp luật hiện hành không có quy định về ưu đãi tài chính đối với cá nhân khởi nghiệp, áp dụng cho trường hợp cụ thể là thanh niên khởi nghiệp dưới hình thức cá nhân, hộ gia đình; Pháp luật hiện hành không có quy định về ưu đãi tài chính đối với doanh nghiệp khởi nghiệp, áp dụng cho trường hợp cụ thể là thanh niên khởi nghiệp dưới hình thức thành lập doanh nghiệp; Quy định về ưu đãi, hỗ trợ hoạt động khởi nghiệp thể hiện tại nhiều văn bản pháp luật.

1.3. Thực trạng pháp luật về hoạt động hỗ trợ vốn vay cho thanh niên khởi nghiệp từ phía các tổ chức tín dụng hoặc tổ chức, cá nhân khác

1.3.1. Hỗ trợ vốn vay cho thanh niên khởi nghiệp từ phía các tổ chức tín dụng

* Hỗ trợ vốn cho thanh niên khởi nghiệp thông qua ngân hàng thương mại

Thông qua việc tiếp cận dưới góc độ pháp lý và thực tiễn, có thể nhận diện hoạt động hỗ trợ vốn cho thanh niên khởi nghiệp thông qua ngân hàng thương mại như sau: Chính sách, pháp luật điều chỉnh về hoạt động hỗ trợ vốn cho thanh niên khởi nghiệp có nhưng không cụ thể, chưa có sự tác động đáng kể đến hoạt động của ngân hàng thương mại nhằm giúp thanh niên dễ dàng tiếp cận vốn; Một số chương trình hỗ trợ vốn vay cho thanh niên khởi nghiệp không thu hút được thanh niên tham gia.

* Hỗ trợ vốn cho thanh niên khởi nghiệp thông qua ngân hàng chính sách

Thông qua những chương trình tín dụng trực tiếp tác động tới đối tượng thanh niên, thanh niên khởi nghiệp nêu trên, cùng với gần 20 chương trình tín dụng và các dự án đã và đang được triển khai thực hiện khác có tác động gián tiếp tới đối tượng thanh niên khởi nghiệp, Ngân hàng Chính sách xã hội đã tạo nên những bước đột phá về cải thiện điều kiện sống và việc làm cho người nghèo, góp phần thực hiện thành công chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới. 

Bên cạnh những kết quả đạt được, nguồn vốn hỗ trợ cho thanh niên khởi nghiệp thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội vẫn còn tồn tại một số điểm hạn chế, cụ thể: Đa phần nguồn vốn có thể ưu tiên cho thanh niên khởi nghiệp (minh chứng rõ nét thông qua các chương trình cho vay kể trên) có mức cho vay thấp hơn so với nhu cầu về vốn của thanh niên khi khởi nghiệp; Trình tự, thủ tục giải ngân đối với khoản tín dụng ưu đãi từ phía Nân hàng Chính sách xã hội còn phức tạp, khó khăn trong việc thực hiện trên thực tế. 

 * Hỗ trợ vốn cho thanh niên khởi nghiệp thông qua tổ chức tài chính vi mô 

  Đánh giá về kết quả đạt được cho thấy, việc cung cấp sản phẩm tín dụng của các tổ chức tài chính vi mô đã được triển khai tốt và có hiệu quả thiết thực. Tuy nhiên, thông qua khảo sát từ nhóm nghiên cứu, mặc dù khẳng định giá trị của dòng vốn vay từ các tổ chức tài chính vi mô hoặc các chương trình tài chính vi mô gắn kết với chủ thể khởi nghiệp là thanh niên, nhưng trên thực tế gần như thiếu vắng các chương trình tài chính vi mô độc lập hoặc chương trình của tổ chức tài chính vi mô hướng tới thanh niên khởi nghiệp. Gần như nhóm đối tượng mà tổ chức tài chính vi mô, chương trình tài chính vi mô hướng tới vẫn đơn thuần là các cá nhân (đặc biệt là phụ nữ), hộ gia đình có thu nhập thấp hay các doanh nghiệp siêu nhỏ có tính địa phương, địa bàn. Thêm vào đó, thực tiễn cho thấy hoạt động của tổ chức tài chính vi mô ở Việt Nam trong một chừng mực nhất định vẫn còn nhiều hạn chế, dẫn tới tính “phổ biến” của loại hình tổ chức tín dụng cũng như hoạt động tín dụng này chưa cao. 

 1.3.2. Hỗ trợ vốn vay cho thanh niên khởi nghiệp từ cho vay ngang hàng

 Có thể thấy pháp luật quy định về cho vay ngang hàng tại Việt Nam đã đạt được một số kết quả như sau: Đã dần hình thành cơ chế thử nghiệm hoạt động cho vay ngang hàng, tạo cơ sở cho việc xây dựng hành hàng pháp lý về cho vay ngang hàng; Khung pháp lý thử nghiệm (Sandbox) đã đưa ra định nghĩa cụ thể về hoạt động cho vay ngang hàng; Khung pháp lý thử nghiệm đã ghi nhận các điều kiện mà công ty P2P Lending phải đảm bảo để được cung cấp dịch vụ cho vay ngang hàng; Có cơ chế bảo vệ nhà đầu tư.

Bên cạnh nhưng điểm tích cực trên, khung pháp lý thử nghiệm về P2P Lending vẫn còn bộc lộ một số hạn chế. Cụ thể như sau: Các điều kiện để quản lý các công ty cho vay ngang hàng tham gia vào hoạt động cho vay ngang hàng còn chưa chặt chẽ khiến cho việc kiểm soát hoạt động cho vay ngang hàng còn gặp nhiều khó khăn; Cơ chế thử nghiệm chưa quản lý về hạn mức cho vay vì thế có thể dẫn đến rủi ro mất vốn rất cao; Việc quản lý dữ liệu cho vay ngang hàng trong Cơ chế thử nghiệm còn chưa hợp lý.

1.4. Thực trạng pháp luật về hoạt động hỗ trợ vốn cho thanh niên khởi nghiệp từ phía các tổ chức, cá nhân trong đời sống kinh tế - xã hội

 1.4.1. Hỗ trợ vốn cho thanh niên khởi nghiệp từ nhà đầu tư thiên thần

  Nhà đầu tư thiên thần là những cá nhân có tiềm lực tài chính lớn, họ sẵn sàng đầu tư vào doanh nghiệp khởi nghiệp ở giai đoạn đầu sau khi hình thành ý tưởng, hoặc giai đoạn sau khi doanh nghiệp hình thành nhưng còn khó khăn về tài chính. Tuy nhiên, do là nguồn vốn từ các cá nhân, nên quy mô vốn đầu tư này còn khá hạn chế so với tổng thể nhu cầu vốn khởi nghiệp của cả thị trường và bên cạnh đó tính chất lỏng lẻo của khoản đầu tư có thể dẫn đến sự bất đồng quan điểm, gây ảnh hưởng tới sự phát triển của doanh nghiệp khởi nghiệp. Trên thực tế, việc tiếp cận với các nhà đầu tư thiên thần tại Việt Nam không dễ.

         Mặt khác, dưới góc độ pháp lý, pháp luật Việt Nam chưa có quy định cụ thể về nhà đầu tư thiên thần. Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp năm 2020, Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành các luật này cho phép nhà đầu tư cá nhân có thể đầu tư dưới hình thức góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp của các doanh nghiệp khởi nghiệp. Thêm vào đó, hiện nay ở Việt Nam chưa có một bộ tiêu chuẩn “cứng” có tính chuyên nghiệp về kiến thức, kinh nghiệm và tài chính dành cho nhà đầu tư thiên thần tại Việt Nam.

1.4.2. Hỗ trợ vốn cho thanh niên khởi nghiệp từ quỹ đầu tư mạo hiểm

            Pháp luật Việt Nam, đặc biệt là Nghị định 38/2018/NĐ-CP đã qui định về quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo, tạo cơ sở cho việc đầu tư vốn của quỹ này cho các doanh nghiệp khởi nghiệp. Cùng với cơ sở pháp lý quy định về quỹ đầu tư mạo hiểm, nhìn trên thực tiễn Việt Nam, mô hình đầu tư này cũng đã hình thành tương đối lâu và vẫn có nhiều “dư địa” để phát triển.

            Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được từ sự ra đời và tồn tại của các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam, cơ chế pháp lý điều chỉnh về các quỹ này vẫn còn nhiều điểm hạn chế, bất cập, tiêu biểu như: Pháp luật không có quy định cụ thể về việc nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam; Việc đăng ký thành lập quỹ theo Nghị định 38/2018/NĐ-CP của Chính phủ cũng còn tồn tại nhiều vướng mắc khi mà Nghị định này ghi nhận hoạt động đầu tư khởi nghiệp sáng tạo là một ngành nghề đầu tư kinh doanh và xác định địa vị pháp lý của các công ty đầu tư khởi nghiệp sáng tạo, quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo, song những vấn đề này chưa được hệ thống pháp luật Việt Nam quy định; Danh mục đầu tư của các quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo theo Khoản 3 Điều 5 của Nghị định 38/2018/NĐ-CP rất hạn chế; Không có chính sách ưu đãi để thúc đẩy sự phát triển của quỹ đầu tư mạo hiểm.

1.4.3. Hỗ trợ vốn cho thanh niên khởi nghiệp từ thị trường chứng khoán

            Khung pháp lý đối với các hình thức đầu tư đặc thù như gọi vốn từ cộng đồng, nhà đầu tư thiên thần, quỹ đầu tư mạo hiểm đều chưa hoàn thiện, thiếu tính đồng bộ; chưa có cơ chế để giúp các nhà đầu tư góp vốn thông qua các hệ thống giao dịch có tổ chức như thị trường chứng khoán. Các điều kiện gia nhập thị trường chứng khoán truyền thống ngày càng được siết chặt, hướng đến chất lượng và sự minh bạch cao theo tinh thần của Luật Chứng khoán 2019.

1.4.4. Hỗ trợ vốn cho thanh niên khởi nghiệp từ gọi vốn cộng đồng

   Tại Việt Nam hiện nay chưa có quy định pháp lý chính thức về Crowd-funding, chưa có quy định cụ thể về tư cách, quyền hạn, trách nhiệm của mỗi bên tham gia khiến các dự án khởi nghiệp tiềm năng chưa thể tiếp cận nguồn vốn. Có nhiều lý do giải thích cho việc gọi vốn cộng đồng chưa phát triển tương xứng với tiềm năng cũng như nhu cầu khởi nghiệp của thanh niên nói riêng, ngưởi khởi nghiệp nói chung. Lý do thứ nhất là về thói quen, tâm lý của công chúng. Lý do thứ hai là những rào cản từ phía người khởi nghiệp. Lý do thứ ba nằm ở phía chính các nền tảng hỗ trợ gọi vốn cộng đồng. Cuối cùng, một lý do quan trọng hàng đầu là rào cản pháp lý. Mặc dù mô hình gọi vốn cộng đồng đã xuất hiện ở Việt Nam từ cách đây 10 năm nhưng cho tới nay, vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào đề cập một cách chính thức về hoạt động này.

            1.4.5. Hỗ trợ vốn cho thanh niên khởi nghiệp từ các chương trình của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và các trường đại học

            1.4.5.1. Đối với tổ chức Đoàn thanh niên các cấp

            Thời gian qua, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã có nhiều hoạt động đồng hành, hỗ trợ thanh niên lập nghiệp, khởi nghiệp ĐMST, tìm kiếm nhiều cơ hội, tạo dựng công ăn việc làm, ổn định cuộc sống. Về kết quả đạt được, trên cơ sở chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước và các chương trình phát động theo chủ đề “Thanh niên khởi nghiệp, lập nghiệp”, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh chỉ đạo, phối hợp với các tỉnh, thành đoàn đã từng bước có tính định hướng và tập trung hơn nhằm khơi dậy tinh thần khởi nghiệp trong thanh niên, tiếp tục hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp, đặc biệt là hỗ trợ vốn vay cho thanh niên khởi nghiệp với nhiều hành động. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, hoạt động hỗ trợ vốn vay cho thanh niên khởi nghiệp của Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh còn tồn tại những hạn chế cơ bản sau:

            Thứ nhất, một số lượng lớn chủ dự án, ý tưởng thanh niên khởi nghiệp không đủ điều kiện về tài sản thế chấp khi thực hiện cho vay theo đề án vì phần lớn thanh niên là người trẻ sống cùng bố mẹ, không phải là chủ hộ cũng không có tài sản thế chấp.

            Thứ hai, tài sản thế chấp được định giá thấp hơn so với Ngân hàng thương mại cổ phần khác, nên một số dự án khi làm thủ tục vay vốn hỗ trợ gặp nhiều khó khăn với tổng mức được vay.

            Thứ ba, sau khi nhận được nguồn vốn hỗ trợ khởi nghiệp, công tác hoàn thiện hồ sơ văn bản gặp khó khăn: như các hóa đơn giá trị gia tăng, chứng từ nguồn gốc xuất xứ của nguồn nguyên liệu đầu vào, gây tăng chi phí sản xuất cho dự án.

            Thứ tư, nghiệp vụ tư vấn xây dựng dự án hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp của cán bộ đoàn cơ sở còn yếu.

            Thứ năm, một số chủ dự án, mô hình khởi nghiệp có độ tuổi trên 35 tuổi, có nhu cầu vay vốn nhưng ngoài độ tuổi thanh niên đề xuất được vay vốn hỗ trợ.

            Thứ sáu, tính mới, sáng tạo trong các dự án khởi nghiệp chưa thật sự rõ ràng, vì thực tế khởi nghiệp nói chung và khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghệ, lĩnh vực mới nói riêng có tỷ lệ thành công khá thấp (dưới 50%). Công tác tuyên truyền chủ trương, chính sách của nhà nước về cho vay nguồn vốn vay ủy thác đến thanh niên vùng sâu vùng xa chưa sâu rộng, chưa đầy đủ dẫn đến nhiều hộ vay vốn nhầm tưởng chính sách cho không, không chịu đóng lãi, gốc đã ảnh hưởng đến chất lượng của nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội.

            Thứ bảy, thanh niên khi tiếp cận các vấn đề về pháp lý, thủ tục hành chính, quy trình vay vốn còn tốn kém nhiều thời gian.

            1.4.5.2. Đối với các trường đại học

            Theo Founder Institute, trường đại học đóng vai trò quan trọng trong cả 3 giai đoạn chính của khởi nghiệp: Hình thành ý tưởng; Phát triển sản phẩm và Tăng trưởng. Tuy nhiên, theo kết quả điều tra khảo sát với một nhóm sinh viên thuộc trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội về những yếu tố quan trọng để bắt đầu một dự án khởi nghiệp, có 24% người được hỏi cho biết họ cảm thấy thiếu các thông tin cần thiết để tiến hành hoạt động khởi nghiệp. Có những sinh viên cho rằng họ còn rất mơ hồ trong việc bắt tay thực hiện một dự án khởi nghiệp của riêng mình, từ đó sinh ra tâm lý lo ngại và không dám thử sức, cảm thấy hoạt động khởi nghiệp là xa vời và khó có thể thực hiện được. Tại Việt Nam, sự kết nối chưa chặt chẽ giữa nhà trường và thị trường đang khiến giảng viên - gạch nối quan trọng giữa nhà trường và doanh nghiệp - thiếu đi sự tiếp xúc thực tiễn.

            2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật hỗ trợ vốn cho thanh niên khởi nghiệp

            2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật hỗ trợ vốn cho thanh niên khởi nghiệp từ phía Chính phủ

   2.1.1. Hỗ trợ vốn cho thanh niên khởi nghiệp thông qua các quỹ tài chính nhà nước

   Đối với Quỹ quốc gia về việc làm, cần thực hiện các giải pháp sau:

            Để huy động tối đa nguồn lực xã hội, cần nghiên cứu, bổ sung quy định tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại thực hiện cho vay hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm cho người lao động, trong đó có đối tượng thanh niên khởi nghiệp. Đồng thời, ngân sách Nhà nước sẽ cấp bù chênh lệch lãi suất cho các ngân hàng thương mại khi thực hiện chương trình cho vay này. Cùng với đó, xây dựng các cơ chế, chương trình nhằm tạo điều kiện việc làm, khởi nghiệp, lập nghiệp cho thanh niên.

Đối với Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, các giải pháp hoàn thiện pháp luật cụ thể sau: Kiến nghị sửa đổi Điều 20 Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa theo hướng mở rộng đối tượng cho vay, tài trợ của Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa bởi vì phần lớn doanh nghiệp đang hoạt động hiện nay là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa; Đồng thời, cần thay đổi về cách thức hoạt động của quỹ.

            Đối với Quỹ bảo lãnh tín dụng, cần thực hiện các giải pháp sau đây: Thay đổi điều kiện được bảo lãnh của Quỹ Bảo lãnh tín dụng; Chính phủ cần đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện hệ thống thông tin thống kê về doanh nghiệp khởi nghiệp hay các dự án khởi nghiệp của thanh niên, cũng như xếp hạng tín dụng của các startup này; Có cơ chế chia sẻ rủi ro trong hoạt động bảo lãnh tín dụng; Quy trình thủ tục đề nghị cấp bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp cần nhanh gọn và thống nhất.

            2.1.2. Hỗ trợ vốn cho thanh niên khởi nghiệp thông qua các ưu đãi tài chính của nhà nước

            - Sửa đổi, bổ sung quy định của Luật Thanh niên và các văn bản hướng dẫn Luật Thanh niên về chính sách khởi nghiệp đối với thanh niên. 

            - Bổ sung quy định của pháp luật thuế thu nhập cá nhân về việc ưu đãi thuế đối với các cá nhân là thanh niên khởi nghiệp thông qua hoạt động sản xuất, kinh doanh. 

            - Sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp về việc ưu đãi thuế đối với doanh nghiệp khởi nghiệp/doanh nghiệp khởi nghiệp do thanh niên làm chủ. 

            - Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần cân nhắc, xem xét ban hành văn bản cụ thể ghi nhận chung các ưu đãi, hỗ trợ cho các tổ chức, cá nhân tham gia cung ứng dịch vụ hỗ trợ có thể dễ dàng tra cứu, tìm hiểu và áp dụng. 

            Ngoài những giải pháp về hoàn thiện pháp luật nêu trên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng cần nghiên cứu, học hỏi mô hình của các nước trên thế giới để xây dựng và thực hiện một cách đa dạng những ưu đãi tài chính cho thanh niên khởi nghiệp và những chủ thể tham gia, hỗ trợ hoạt động khởi nghiệp của thanh niên, thay vì những ưu đãi vẫn còn đơn giản như hiện nay. 

            2.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật hỗ trợ vốn cho thanh niên khởi nghiệp từ phía các tổ chức tín dụng hoặc các tổ chức, cá nhân khác

            2.2.1. Đối với hoạt động hỗ trợ vốn vay từ các tổ chức tín dụng

            - Cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về hoạt động hỗ trợ vốn vay cho thanh niên khởi nghiệp thông qua tổ chức tín dụng. 

            - Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật và kinh tế cho cả hai phía: Tổ chức tín dụng và thanh niên nhằm nâng cao nhận thức về kênh hỗ trợ vốn vay từ tổ chức tín dụng cho thanh niên khởi nghiệp. 

            - Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ trong tổ chức Đoàn Thanh niên nhằm thúc đẩy kết nối, làm việc với các tổ chức tín dụng ngân hàng nhằm đạt được những thỏa thuận tốt nhất cho Đoàn viên, thanh niên có ý định khởi nghiệp. 

            Bên cạnh những giải pháp chung, cũng cần triển khai những giải pháp đặc thù gắn liền với từng loại hình tổ chức tín dụng, cụ thể:

      • Đối với các Ngân hàng thương mại: Quy định phân loại rõ từng nhu cầu vay thuộc diện được áp dụng chính sách ưu đãi vay vốn; Quy định rõ cơ chế không áp dụng biện pháp bảo đảm hoặc giảm tỷ lệ bảo đảm tối đối với việc cho thanh niên vay để khởi nghiệp, ngân hàng thương mại không chịu trách nhiệm về việc cho vay không có bảo đảm nếu việc cho vay tuân thủ các điều kiện do Nghị định quy định; Quy định cơ chế phối hợp giữa ngân hàng và tỉnh đoàn trong việc thực hiện đánh giá, giám sát, kiểm soát rủi ro sau cho vay; Quy định rõ chỉ tiêu tăng trưởng dư nợ tối thiểu hàng năm áp dụng với các ngân hàng thương mại là doanh nghiêp nhà nước trong việc cho vay thanh niên khởi nghiệp, quy định trách nhiệm, chế tài áp dụng với người đại diện vốn nhà nước tại ngân hàng thương mại có vốn nhà nước, người đứng đầu ngân hàng thương mại trong trường hợp ngân hàng không vi phạm chỉ tiêu tăng trưởng dư nợ tối thiểu cho thanh niên vay để khởi nghiệp; Quy định cơ chế riêng về trích lập dự phòng, xử lý rủi ro và cơ chế sử dụng ngân sách để hỗ trợ bù đắp tổn thất cho ngân hàng thương mại cho vay ưu đãi để thanh niên khởi nghiệp.  

• Đối với Ngân hàng Chính sách xã hội: Rà soát các quy định của pháp luật để sửa đổi, bổ sung những quy định còn bất cập, từ đó hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về hoạt động tín dụng chính sách xã hội, tạo điều kiện cho thanh niên khởi nghiệp dễ dàng tiếp cận, sử dụng nguồn vốn này; Đảm bảo và tăng cường nguồn lực tài chính cho Ngân hàng Chính sách xã hội nhằm thực hiện hiệu quả hoạt động hỗ trợ vốn vay ưu đãi cho thanh niên khởi nghiệp nói riêng, thực hiện hiệu quả các chương trình tín dụng chính sách xã hội nói chung.

            • Đối với các tổ chức tài chính vi mô: Bám sát mục tiêu của Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia, từ đó hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, rà soát, sửa đổi Luật Các tổ chức tín dụng, các quy định liên quan đến tổ chức và hoạt động của tổ chức tài chính vi mô, qua đó tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và tạo điều kiện phát triển các chương trình, dự án tài chính vi mô hướng tới hoạt động cung cấp vốn vay cho thanh niên khởi nghiệp; Tổ chức tài chính vi mô cần tập trung vào việc mở rộng phạm vi hoạt động để tăng cơ hội tiếp cận dịch vụ tài chính vi mô cho thanh niên.

            2.2.2. Đối với hoạt động hỗ trợ vốn vay từ cho vay ngang hàng

            Vay vốn ngang hàng là hình thức cung cấp vốn khá hiệu quả, giúp doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn giá rẻ, tuy nhiên cũng bao hàm nhiều yếu tố rủi ro ở nhiều góc độ nếu không có cơ chế quản lý phù hợp. Để có cơ chế, chính sách phù hợp với hoạt động tín dụng này, cần phải được triển khai thử nghiệm.

Cơ chế thử nghiệm cần hoàn thiện các quy định về điều kiện của chủ thể được tham gia cung cấp dịch vụ cho vay ngang hàng; đưa ra các quy định về giới hạn vốn huy động và hạn mức cho vay cụ thể. Ngân hàng nhà nước cần trực tiếp quản lý dữ liệu của hoạt động cho vay ngang hàng.

            Nghiên cứu để có chế tài cụ thể trong việc quản lý thị trường P2P Lending. 

            2.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật hỗ trợ vốn cho thanh niên khởi nghiệp từ phía các tổ chức, cá nhân trong đời sống kinh tế - xã hội

            2.3.1. Đối với nhà đầu tư thiên thần

            Cần thực hiện 04 vấn đề sau: Quy định cụ thể về khái niệm nhà đầu tư thiên thần, tiêu chí xác định nhà đầu tư thiên thần; Cụ thể hóa các biện pháp khuyến khích, hỗ trợ nhà đầu tư thiên thần thành lập và vận hành các quỹ đầu tư mạo hiểm như biện pháp miễn thuế, hoàn thuế thu nhập doanh nghiệp theo lộ trình, miễn/giảm thuế thu nhập cá nhân đối với phần thu nhập phát sinh khi nhà đầu tư mạo hiểm kết thúc thương vụ đầu tư; Để tạo môi trường gọi vốn lành mạnh, chuyên nghiệp cho thanh niên khởi nghiệp nói riêng, doanh nghiệp khởi nghiệp nói chung cần sớm thiết lập một bộ công cụ ứng dụng kinh doanh liêm chính để giúp nhà đầu tư đánh giá đúng mức độ liêm chính của các doanh nghiệp khởi nghiệp trước khi chính thức rót vốn đầu tư; Tập trung phát triển mạng lưới kết nối nhà đầu tư thiên thần bên cạnh mạng lưới chuyên gia, cố vấn khởi nghiệp được phân theo các ngành, lĩnh vực khác nhau. 

            2.3.2. Đối với quỹ đầu tư mạo hiểm

            Cần chú trọng thực hiện 05 vấn đề: Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý điều chỉnh và quản lý hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm; Qui định về việc nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam; Đơn giản hóa các thủ tục thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm, chuyển nhượng vốn góp, cổ phần để tạo điều kiện cho các quĩ này đầu tư vốn cho doanh nghiệp khởi nghiệp và thúc đẩy sự phát triển các doanh nghiệp này; Quy định ưu đãi về tài chính cho hoạt động đầu tư mạo hiểm; Chính phủ cần tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững, chuyên nghiệp của thị trường chứng khoán, tạo nên khả năng thanh khoản cho các nhà đầu tư mạo hiểm khi muốn kết thúc hoạt động đầu tư. 

            2.3.3. Đối với hình thức gọi vốn cộng đồng

            Cần nhấn mạnh 05 vấn đề: Cần có một định nghĩa rõ ràng về gọi vốn cộng đồng cũng như mô hình gọi vốn cộng đồng, nhất là trong bối cảnh cách mạng 4.0 hiện nay; Xác định rõ ràng cơ quan có vai trò quản lý nhà nước đối với hoạt động gọi vốn cộng đồng; Ban hành quy định xác định rõ trách nhiệm của các tổ chức cung cấp nền tảng gọi vốn cộng đồng trong tuân thủ các điều kiện về nhân sự, tài chính, công nghệ thông tin, bảo mật cũng như đảm bảo sự công bằng trong quảng bá các dự án gọi vốn trên nền tảng; Quy định nghĩa vụ của người gọi vốn trong việc minh bạch thông tin, chịu trách nhiệm về tính trung thực trong cung cấp thông tin dự án cũng như đảm bảo thực hiện cam kết đối với nhà đầu tư khi dự án kêu gọi vốn thành công và đi vào hiện thực hoá; Có quy định đảm bảo an toàn cho nhà đầu tư bởi phần lớn các nhà đầu tư trong hình thức gọi vốn cộng đồng là nhà đầu tư cá nhân nhỏ, thường đầu tư theo niềm tin, cảm tính và không có nhiều kiến thức, kỹ năng để đánh giá toàn diện dự án gọi vốn. Bên cạnh đó, khi phát triển các hình thức gọi vốn cộng đồng, Nhà nước cũng cần cân nhắc tới sự tương thích của các quy định về gọi vốn cộng đồng với các quy định pháp luật liên quan như Luật chứng khoán, Luật các tổ chức tín dụng, Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa... Để hình thức gọi vốn cộng đồng tiệm cận được với công chúng nói chung, thanh niên khởi nghiệp nói riêng, công tác giáo dục, tuyên truyền giữ một vai trò rất quan trọng. 

            Cuối cùng, trong cơ chế điều chỉnh về gọi vốn cộng đồng, cần phát huy chiều sâu nhân bản của hoạt động đầu tư, chứ không nên dừng lại ở quan niệm đầu tư chỉ có tính chất tìm kiếm lợi nhuận. 

            2.3.4. Đối với hình thức hỗ trợ vốn thông qua thị trường chứng khoán

            Về xây dựng khung pháp lý, Luật Chứng khoán 2019 đã ghi nhận về mặt nguyên tắc thẩm quyền tổ chức thị trường chứng khoán dành riêng cho các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo. Tuy nhiên, để triển khai cần sớm nghiên cứu, xây dựng khung pháp lý chi tiết, trong đó tập trung vào những vấn đề chính sau: (1) Điều kiện niêm yết và tiêu chí đánh giá doanh nghiệp khởi nghiệp; (2) Khung nghĩa vụ đối với các doanh nghiệp khởi nghiệp niêm yết; (3) Cơ chế giao dịch; (4) Cách thức bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư; (5) Các thiết chế trung gian là chủ thể kinh doanh chứng khoán chuyên nghiệp để làm cầu nối hiệu quả giữ các nhóm đối tượng. 

            Bên cạnh đó, Chính phủ rà soát toàn diện các chính sách về xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp để sửa đổi, bổ sung nhằm tạo tính đồng bộ, liên thông, kết nối trong hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp khởi nghiệp. Việc thiết lập và vận hành sàn giao dịch dành cho doanh nghiệp khởi nghiệp cần thực thi và triển khai qua nhiều giai đoạn. 

Ngoài xây dựng một thị trường chứng khoán cho thanh niên khởi nghiệp, yếu tố con người, cụ thể là bản thân các nhà khởi nghiệp trẻ cũng cần phải nâng cao nhận thức và hiểu biết pháp luật về thị trường chứng khoán, đồng thời, học hỏi kinh nghiệm, kiên trì xây dựng một doanh nghiệp vững mạnh và minh bạch.  

            2.4. Giải pháp hỗ trợ vốn cho thanh niên khởi nghiệp từ các chương trình của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và các trường đại học

            2.4.1. Giải pháp đối với tổ chức Đoàn các cấp

Tổ chức Đoàn cần triển khai đồng bộ các hoạt động sau đây: 

Các hoạt động triển khai đối với thanh niên, bao gồm: (1) Tuyên truyền chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về khởi nghiệp và vai trò, vị trí, trách nhiệm của thanh niên trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội; (2) Thường xuyên tuyên truyền, nhân rộng mô hình vay vốn hiệu quả trong đoàn viên thanh niên; tổ chức trao đổi kinh nghiệm phát triển kinh tế trong thanh niên, nhất là thanh niên nông thôn, miền núi, từng bước giúp cán bộ, đoàn viên thanh niên phát huy vai trò xung kích, mạnh dạn vay vốn phát triển kinh tế ngay tại địa phương; (3) Tập huấn, tư vấn, bồi dưỡng cho thanh niên các kiến thức, kỹ năng cần thiết để khai thác, tiếp cận và quản lý, sử dụng các khoản vốn, từ vốn chủ sở hữu đến các khoản vốn huy động; (4) Tổ chức các cuộc thi khởi nghiệp trong các đối tượng thanh niên nhằm tìm kiếm các ý tưởng, dự án khởi nghiệp tiềm năng, đặc biệt là các ý tưởng, dự án khởi nghiệp ĐMST và áp dụng công nghệ số; (5) Hỗ trợ thanh niên tiếp cận các nguồn vốn, tài chính thông qua các chương trình, chính sách ưu đãi cho thanh niên khởi nghiệp, lập nghiệp của Chính phủ; nghiên cứu triển khai xây dựng các sàn giao dịch ý tưởng nhằm kết nối thanh niên với các quỹ đầu tư và những nhà đầu tư tiềm năng khác; (6) Định kỳ tổ chức các triển lãm, hội chợ sản phẩm khởi nghiệp; tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại giới thiệu sản phẩm khởi nghiệp; kết nối với các doanh nghiệp vận chuyển lớn ưu đãi chi phí vận chuyển các sản phẩm của thanh niên khởi nghiệp; (7) Thành lập, duy trì và nhân rộng các mô hình liên kết phát triển kinh tế như: tổ hợp tác thanh niên, hợp tác xã thanh niên, câu lạc bộ thanh niên làm kinh tế; hỗ trợ thanh niên thành lập và chuyển đổi sang mô hình hợp tác xã kiểu mới.

Các hoạt động triển khai với các chủ thể khác có liên quan hoạt động hỗ trợ vốn cho thanh niên khởi nghiệp nói riêng, hoạt động hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp nói chung, cụ thể:

- Đẩy mạnh phối hợp với Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh để khai thác hiệu quả các nguồn vốn, phối hợp tổ chức tập huấn nghiệp vụ quản lý nguồn vốn vay uỷ thác, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật cho các dự án khởi nghiệp, phương pháp xây dựng mô hình kinh tế.

            - Rà soát, lập danh sách các tổ hợp tác, hợp tác xã thanh niên, câu lạc bộ thanh niên phát triển kinh tế, trên cơ sở đó đề xuất thành lập các tổ tiết kiệm và vay vốn mới do Đoàn thanh niên quản lý, chia tổ, tách tổ để củng cố lại chất lượng hoạt động của tổ tiết kiệm và vay vốn yếu kém, đồng thời tăng số vốn cho thanh niên vay, nhất là vay theo chương trình sản xuất, kinh doanh.

            - Tham mưu cấp uỷ và chính quyền địa phương tiếp tục quan tâm hỗ trợ về chủ trương, chính sách, tạo điều kiện cho thanh niên phát triển kinh tế thông qua các nguồn vốn vay ưu đãi...

            - Thành lập các hội đồng chuyên gia tư vấn hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp cấp trung ương, tỉnh, thành phố. Đồng thời, nâng cao hiệu quả các hoạt động liên kết giữa các trường đại học, viện, trung tâm nghiên cứu với các thanh niên khởi nghiệp đẻ ứng dụng và thương mại hoá các kết quả nghiên cứu...

Các hoạt động triển khai trong tổ chức Đoàn, cụ thể:

- Nâng cao hơn nữa vai trò chỉ đạo trực tiếp của lãnh đạo Đoàn các cấp trong việc chỉ đạo cấp xã chấn chỉnh công tác quản lý, sử dụng vốn vay; phối hợp với Ngân hàng Chính sách xã hội huyện, thị, thành phố ký kết văn bản liên tịch trong việc uỷ thác cho vay vốn với Ngân hàng Chính sách xã hội.

            - Cần xây dựng và lồng ghép các nội dung chuyên đề về công tác hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp theo các nhóm đối tượng trong công tác tập huấn cán bộ Đoàn, Hội các cấp. 

            - Cần chú trọng hướng dẫn các tỉnh, thành Đoàn xây dựng các đơn vị chuyên trách hỗ trợ khởi nghiệp phù hợp với địa phương.

            - Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát từ Trung ương đến cơ sở nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời sai phạm, không để thất thoát, chiếm dụng vốn vay, xử lý dứt điểm các tổ tiết kiệm và vay vốn còn xâm tiêu, chiếm dụng vốn.

 2.4.2. Giải pháp đối với các trường đại học

            Đối với các trường đại học, cần tập trung vào 06 giải pháp sau: (1) Hỗ trợ vốn, kết nối đầu tư; (2) Thành lập trung tâm ươm tạo, hỗ trợ khởi nghiệp trong trường đại học; (3) Tổ chức đào tạo về khởi nghiệp cho sinh viên, học viên; (4) Tổ chức cuộc thi khởi nghiệp; (5) Xây dựng, kết nối và quản lý mạng lưới cố vấn/ huấn luyện viên khởi nghiệp; (6) Tổ chức hoạt động truyền thông cho khởi nghiệp./.

Dương Thu Phương (Tổng hợp)