Thứ Năm, 04/07/2024 10:53

THỰC HIỆN CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐỔI MỚI, SẮP XẾP DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Thực hiện chủ trương, chính sách và pháp luật về đổi mới, sắp xếp doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là khâu quan trọng nhằm tạo chuyển biến cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả DNNN. Quá trình tổ chức, sắp xếp lại các DNNN là để doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh, khắc phục tình trạng nhiều về số lượng, nhưng quy mô nhỏ, vốn ít, kỹ thuật lạc hậu. Nhà nước chỉ tập trung vào những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, lĩnh vực an ninh - quốc phòng, những vùng, lĩnh vực mà doanh nghiệp chưa thể hoặc không thể làm được.
  1. Thực trạng doanh nghiệp Nhà nước thuộc UBND Thành phố
    1. Số lượng DNNN và doanh nghiệp có vốn nhà nước
      1. Số lượng doanh nghiệp

Hà Nội hiện có 149.283 doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó số DNNN và doanh nghiệp có vốn nhà nước thuộc UBND thành phố Hà Nội là 56 doanh nghiệp (chiếm 0.04%), gồm 27 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước và 29 doanh nghiệp có vốn nhà nước đầu tư, cụ thể:

- 27 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, gồm: 04 tổng công ty, 04 công ty mẹ - công ty con, 16 công ty TNHH một thành viên 100% vốn nhà nước, 03 công ty nhà nước chưa chuyển đổi sang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.

- 29 doanh nghiệp có vốn nhà nước đầu tư, gồm: 14 công ty cổ phần độc lập do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, 13 công ty cổ phần độc lập do Nhà nước nắm giữ dưới 50% vốn điều lệ và 02 công ty liên doanh có vốn góp của Nhà nước dưới 50% vốn điều lệ.

  1. Phân loại doanh nghiệp

a) Theo lĩnh vực hoạt động

- Trong số 27 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước có 09 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích; 18 doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh.

- Trong số 29 doanh nghiệp có vốn nhà nước đầu tư có 02 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích; 27 doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh.

b ) Theo ngành nghề kinh doanh

- Trong số 27 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước có 01 doanh nghiệp khối công nghiệp, 02 doanh nghiệp khối xây dựng, 19 doanh nghiệp khối dịch vụ và 05 doanh nghiệp khối nông, lâm nghiệp.

- Trong số 29 doanh nghiệp có vốn nhà nước đầu tư có 14 doanh nghiệp khối công nghiệp, 01 doanh nghiệp khối xây dựng, 13 doanh nghiệp khối dịch vụ và 01 doanh nghiệp khối nông, lâm nghiệp.

  1. Tình hình tài chính và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong giai đoạn 2016-2022
    1. Kết quả tổng hợp số liệu báo cáo tài chính năm 2022 của các doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ thuộc UBND thành phố Hà Nội như sau:

Bảng 1: Kết quả hoạt động của doanh nghiệp  do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ

                                                                                                                                    Đơn vị: tỷ đồng

STT

Chỉ tiêu

Năm

2016

Năm

2022

Tăng/giảm(%)

1

Tổng tài sản

36.221

45.079

+24,46

2

Tổng số nợ

15.953

18.015

+12,93

3

Tổng vốn sở hữu

20.608

27.040

+31,21

4

Tổng doanh thu

15.402

15.289

-0,73

                       (Nguồn: UBND Thành phố Hà Nội)

Trong đó:

+ 22 doanh nghiệp kinh doanh có lãi.

+ 02 doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ; trong đó: (1) Công ty TNHH một thành viên Điện ảnh Hà Nội lỗ 11,49 tỷ đồng, chủ yếu do chi phí tiền thuê nhà, thuê đất cao trong khi doanh thu từ hoạt động kinh doanh chính là chiếu phim rất thấp, không đủ bù đắp chi phí; (2) Công ty TNHH MTV Nhà xuất bản Hà Nội lỗ 2,1 tỷ đồng, chủ yếu là do doanh thu không bù đắp chi phí (chủ yếu là chi phí tiền thuê đất).

  • Tổng số phát sinh phải nộp ngân sách nhà nước là 1.740 tỷ đồng, bằng 86,78% so với năm 2016 (2.005 tỷ đồng).
    1. Kết quả số liệu báo cáo tài chính năm 2022 các doanh nghiệp có vốn nhà nước đầu tư (gồm 13 doanh nghiệp d o Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ và 1 1 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ dưới 50% vốn điều lệ) như sau:
  • Tổng vốn điều lệ của các doanh nghiệp là 5.018 tỷ đồng, trong đó vốn góp của Nhà nước là 3.497 tỷ đồng, chiếm 69,69% vốn điều lệ.

 

Bảng 2: Kết quả hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư Nhà nước

                                                                                                             Đơn vị: tỷ đồng

STT

Chỉ tiêu

2016

2022

Tăng/giảm(%)

1

Tổng tài sản

4.476

10.757

+140,33%

2

Tổng số nợ

2.449

4.024

+64,31%

3

Vốn chủ sở hữu

2.037

6.728

+230,29

4

Tổng doanh thu

4.643

6.563

+41,35%

  

 

 

 

 

 

 

 

 

(Nguồn: UBND Thành phố Hà Nội)

   Trong đó:

+ 18 doanh nghiệp kinh doanh có lãi.

+ 06 doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ; trong đó một số doanh nghiệp phát sinh lỗ lớn như: Công ty cổ phần Truyền hình cáp Hà Nội lỗ 35,39 tỷ đồng; Công ty cổ phần Đầu tư thương mại và dịch vụ quốc tế lỗ 18,96 tỷ đồng... Ngoài các nguyên nhân trên, đa phần các doanh nghiệp còn chịu ảnh hưởng từ dịch bệnh Covid-19 dẫn đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh không hiệu quả, doanh thu không đủ bù đắp chi phí.

  • Tổng số phát sinh phải nộp ngân sách là 435 tỷ đồng, bằng 164,77% so với năm 2016 (264 tỷ đồng).

Giai đoạn 2016-2022, các DNNN, doanh nghiệp có vốn nhà nước đầu tư thuộc UBND Thành phố tuy giảm về số lượng thông qua cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước đầu tư, nhưng quy mô doanh nghiệp được mở rộng thông qua hoạt động đầu tư bổ sung vốn điều lệ. Đa phần các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, đảm bảo các chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu do UBND Thành phố giao hoặc Đại hội đồng cổ đông thông qua. Mặc dù trong các năm 2020, 2021, 2022 các doanh nghiệp phải chịu ảnh hưởng không nhỏ từ tác động của dịch bệnh Covid-19, nhưng hầu hết các doanh nghiệp vẫn duy trì đảm bảo được hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định, đóng góp cho ngân sách Thành phố, đảm bảo thu nhập cho người lao động.

  1. Đánh giá chung
    1. Kết quả đạt được

Công tác sắp xếp lại doanh nghiệp được Thành phố chủ động triển khai, đảm bảo bám sát tinh thần chỉ đạo của Trung ương và Chính phủ, tuân thủ đúng quy định của pháp luật và công khai, minh bạch, kịp thời báo cáo, đề xuất xin ý kiến các bộ, ngành chỉ đạo, hướng dẫn các nội dung còn vướng mắc, bất cập nảy sinh, phát hiện trong quá trình triển khai thực hiện.

Các doanh nghiệp trước khi triển khai cổ phần hóa được xử lý tồn tại về công nợ, tài chính, tài sản theo đúng quy định. Công tác xây dựng phương án sử dụng đất sau cổ phần hóa ngày càng được quan tâm chú trọng; đặc biệt là việc rà soát, thu hồi về Thành phố các địa điểm nhà đất sử dụng không hiệu quả, sử dụng không đúng mục đích.

Việc công khai minh bạch trong cổ phần hóa, thoái vốn được thực hiện nghiêm túc, từ kế hoạch cổ phần hóa, thoái vốn đến lựa chọn đơn vị tư vấn, lựa chọn nhà đầu tư chiến lược, cáo bạch thông tin khi bán cổ phần...; đảm bảo quyền lợi của nhà nước, của người lao động, của nhà đầu tư theo đúng quy định của pháp luật.

Công tác xác định, thẩm định và phê duyệt giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa được Thành phố quan tâm chỉ đạo, đảm bảo đúng các quy định pháp luật.

Công tác sắp xếp lại doanh nghiệp của Thành phố đảm bảo hiệu quả, việc xác định và phê duyệt giá khởi điểm chào bán cổ phần, vốn góp của Nhà nước khi cổ phần hóa, thoái vốn tuân thủ đúng quy định pháp luật, kết quả bán không có trường hợp giá bán dưới mệnh giá.

Về cơ bản, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp sau cổ phần hóa đều giữ được ổn định và phát triển; năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, dịch vụ, khả năng cạnh tranh từng bước được nâng cao; quyền lợi của Nhà nước, người lao động và nhà đầu tư trong quá trình cổ phần hoá được đảm bảo theo quy định pháp luật.

Các đề án được phê duyệt đã xác định được các định hướng chiến lược và kế hoạch trọng tâm nhằm phát triển doanh nghiệp trong giai đoạn đến năm 2020, giúp doanh nghiệp tập trung vào những vấn đề chính như: Xác định mục tiêu tái cơ cấu, chiến lược phát triển doanh nghiệp trong trung và dài hạn, rà soát, đánh giá, cơ cấu lại ngành nghề kinh doanh; xác định mô hình hoạt động của các doanh nghiệp; tập trung đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp, tăng cường đào tạo lực lượng lao động chất lượng cao…

Công tác quản lý, giám sát tài chính và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp được thực hiện thường xuyên, nghiêm túc, đảm bảo đúng quy định của pháp luật; qua đó đã đánh giá đầy đủ tình hình tài chính doanh nghiệp, kịp thời phát hiện những khó khăn, vướng măc, yếu kém, vi phạm của doanh nghiệp, cảnh báo doanh nghiệp có nguy cơ, hạn chế, rủi ro trong quản lý tài chính doanh nghiệp.

  1. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

Trên thực tế, kết quả công tác sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, thoái vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp của Thành phố giai đoạn vừa qua còn một số tồn tại, hạn chế như:

Tiến độ thực hiện còn chậm so với kế hoạch; tỷ lệ vốn nhà nước nắm giữ tại một số doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa còn cao, hiệu quả sản xuất kinh doanh của một số doanh nghiệp không cao nên khả năng thu hút các nhà đầu tư tham gia mua cổ phần còn khá hạn chế.

Nhiều chính sách, chế độ về cổ phần hóa, thoái vốn được thay đổi, ban hành mới dẫn đến việc các doanh nghiệp đã được phê duyệt phương án sử dụng đất sau cổ phần hóa, hoàn thành hồ sơ xác định giá trị doanh nghiệp hoặc đã được phê duyệt giá khởi điểm chuyển nhượng vốn nhà nước đầu tư… phải thực hiện rà soát, xây dựng lại phương án theo quy định mới.

Sự phối giữa các sở, ngành và doanh nghiệp cũng còn hạn chế, chưa thật chặt chẽ, chưa nhanh chóng theo quy trình và thẩm quyền, trách nhiệm.

Tác động của dịch bệnh Covid-19 cũng ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp vừa phải tập trung nhiệm vụ sản xuất kinh doanh theo kế hoạch đề ra, đảm bảo ổn định thu nhập cho người lao động, vừa phải thực hiện tốt công tác phòng, chống dịch, dẫn đến nhiều doanh nghiệp chưa hoàn thành các thủ tục pháp lý về thực hiện sắp xếp lại, xử lý nhà, đất trước khi cổ phần hóa theo quy định.

   Nhận thức của một bộ phận doanh nghiệp về chủ trương cổ phần hóa DNNN tuy đã có chuyển biến, nhưng chưa hiểu đầy đủ ý nghĩa quan trọng của công tác này đối với phát triển kinh tế - xã hội.

Những tồn tại, hạn chế nêu trên xuất phát từ các nguyên nhân cơ bản sau:

  1. Cơ chế chính sách có sự thay đổi dẫn đến một số doanh nghiệp đã được phê duyệt phương án sử dụng đất sau cổ phần hóa, hoàn thành hồ sơ xác định giá trị doanh nghiệp phải thực hiện rà soát, điều chỉnh lại theo các quy định mới; trong khi việc áp dụng các quy định mới phát sinh không ít vướng mắc do không được quy định chi tiết.
  2. Việc triển khai rà soát, sắp xếp lại, xử lý nhà, đất của doanh nghiệp theo quy định tại Nghị định số 167/2017/NĐ-CP ngày 31/12/2017 của Chính phủ về sắp xếp lại, xử lý tài sản công mặc dù được thực hiện nghiêm túc, nhưng trên thực tế gặp không ít vướng mắc, bất cập dẫn đến thời gian thực hiện kéo dài.
  3. Quá trình triển khai thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp phát sinh khó khăn, vướng mắc trong việc xác định giá trị doanh nghiệp, thời gian thực hiện kéo dài, ảnh hưởng tiến độ cổ phần hoá, thoái vốn theo kế hoạch đã đề ra.
  4. Việc thực hiện chính sách, chế độ về cổ phần hóa, thoái vốn trên thực tế còn nhiều quan điểm chỉ đạo, cách biểu chưa thống nhất giữa các ngành, các cấp và doanh nghiệp.

5. Các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn trong giai đoạn này là doanh nghiệp có quy mô vốn, lao động lớn, quản lý nhiều địa điểm nhà đất, có nhiều tồn tại và vướng mắc về tài chính cần được xử lý trước khi thực hiện cổ phần hoá, thoái vốn. Quá trình xử lý tồn tại, vướng măc gặp khó khăn, thời gian kéo dài.

  1. Đề xuất giải pháp

Nhằm triển khai có hiệu quả công tác sắp xếp, cổ phần hóa DNNN trong thời gian tới, cần triển khai đồng bộ các giải pháp sau:

Thứ nhất, cần có quyết tâm chính trị, sự quan tâm chỉ đạo sát sao, quyết liệt của UBND Thành phố và sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Trung ương, các sở, ngành và doanh nghiệp trong quá trình triển khai công tác cổ phần hóa, thoái vốn. Khuyến khích cập nhật danh mục và tạo thuận lợi cho sắp xếp lại cơ sở nhà, đất, xử lý tài chính, cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp để đảm bảo khi đưa vào danh mục cổ phần hóa thì có tính khả thi cao và đạt được mục tiêu của cổ phần hóa giai đoạn 2021-2025.

Thứ hai, làm tốt công tác chuẩn bị cổ phần hóa, thoái vốn; phân định rõ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và doanh nghiệp; rà soát kỹ, kịp thời xử lý dứt điểm, đúng chế độ, đúng thẩm quyền những tồn tại, vướng mắc về đất đai, tài chính, tài sản, công nợ; đảm bảo phương án sử dụng đất sau cổ phần hóa, phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng tại địa phương và chiến lược phát triển của doanh nghiệp.

Thứ ba, đề cao yêu cầu đảm bảo công khai, minh bạch quy trình cổ phần hóa, thoái vốn, thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh, tài chính, tỷ lệ cổ phần nhà nước nắm giữ và tình hình quản lý và sử dụng đất đai của doanh nghiệp; lựa chọn đơn vị tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp, tư vấn xây dựng phương án cổ phần hóa, thoái vốn có năng lực, đáp ứng đủ điều kiện theo quy định và đề cao trách nhiệm, chất lượng các dịch vụ của các đơn vị tư vấn.

Thứ tư, tăng cường các biện pháp kiểm tra, giám sát quá trình cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước không để xảy ra tiêu cực, tham nhũng, vi phạm pháp luật, thất thoát tài sản Nhà nước, kiên quyết xử lý các tổ chức, cá nhân vi phạm theo đúng quy định của pháp luật…

Thứ năm, cụ thể hóa và tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu doanh nghiệp và kịp thời phát hiện, đề xuất phương án tháo gỡ khó khăn, xử lý theo thẩm quyền các vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện. Đồng thời, chịu trách nhiệm trước UBND Thành phố trong trường hợp không hoàn thành nhiệm vụ, không đảm bảo hiệu quả, tiến độ được giao hoặc để xảy ra thất thoát vốn, tài sản của nhà nước khi thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn tại các doanh nghiệp…    

Dương Thu Phương (Tổng hợp)
  Ý kiến bình luận

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Hà Nội hoàn thành chỉ tiêu “Chỉ số Hài lòng năm 2023 đạt trên 83 ”
Hà Nội hoàn thành chỉ tiêu “Chỉ số Hài lòng năm 2023 đạt trên 83%”

Chỉ số Hài lòng năm 2023 của Hà Nội đạt 83,57%, xếp thứ 21/63 tỉnh/thành phố, tăng 3,41%, tăng tới 9 bậc so với năm trước và đứng thứ 2 trong 5 thành phố trực thuộc Trung ương. Với kết quả này, Hà Nội đã hoàn thành chỉ tiêu đề ra là Chỉ số Hài lòng năm 2023 đạt trên 83%.

Làng nghề truyền thống trước xu hướng thương mại điện tử
Làng nghề truyền thống trước xu hướng thương mại điện tử

Trong xu thế hội nhập quốc tế, thương mại điện tử (TMĐT) đã và đang trở thành kênh quảng bá mang lại hiệu quả cao, không chỉ đối với thị trường trong nước, mà còn có cơ hội lan tỏa ra thị trường thế giới. Tuy nhiên, tiềm năng từ ứng dụng TMĐT vào sản xuất, kinh doanh tại các làng nghề trên địa bàn Thành phố vẫn là một vấn đề cần quan tâm nghiên cứu để có hướng đi thích hợp.

Cần thay đổi tư duy phát triển nhà ở xã hội
Cần thay đổi tư duy phát triển nhà ở xã hội

Dữ liệu nghiên cứu của Hội Môi giới bất động sản Việt Nam (VARS) cho thấy, kể từ năm 2018 đến nay, nguồn cung nhà ở có xu hướng sụt giảm nghiêm trọng. Thời gian qua, Nhà nước đã có nhiều nỗ lực trong việc ban hành chính sách nhằm thu hút doanh nghiệp tham gia phát triển, cải thiện nguồn cung phân khúc nhà ở xã hội. Tuy nhiên, những chính sách này vẫn còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ, tạo ra nhiều điểm nghẽn khiến chủ đầu tư gặp khó khăn trong việc tiếp cận.

Kiến tạo động lực tăng trưởng mới
Kiến tạo động lực tăng trưởng mới

Diễn đàn Kinh tế - xã hội Việt Nam 2023 với chủ đề “Tăng cường năng lực nội sinh, kiến tạo động lực cho tăng trưởng và phát triển bền vững” do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội phối hợp với Ban Kinh tế Trung ương, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam tổ chức ngày 19/9/2023 tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia.