Ở Việt Nam, dịch bệnh đang được kiểm soát song diễn biến rất phức tạp và khó lường, ảnh hưởng đến tất cả các hoạt động đời sống nhân dân. Là Thủ đô quốc gia có nền kinh tế mở, Hà Nội là địa phương chịu tác động nặng nề nhất. Hiện nay, Hà Nội có số ca bệnh cao nhất cả nước. Để kiểm soát và giảm tác động tiêu cực của dịch bệnh, toàn bộ hệ thống chính trị Hà Nội đã nhanh chóng vào cuộc với tinh thần: quyết đoán, quyết liệt, kịp thời, nhanh nhạy, bản lĩnh, công khai, minh bạch, đúng tinh thần "chống dịch như chống giặc", kịp thời ban hành các văn bản chỉ đạo mạnh mẽ, quyết liệt, tăng cường truyền thông, thông tin về dịch bệnh và tác động của dịch bệnh...  Tuy nhiên, đại dịch vẫn còn tiềm ẩn diễn biến phức tạp, khó đoán định thời điểm kết thúc.

Từ yêu cầu thực tiễn, để có thêm luận cứ khoa học giúp Thành phố thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội ứng phó với dịch bệnh Covid-19, Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội đã đề xuất Thành phố cho phép triển khai điều tra xã hội học trên nền công cụ khảo sát trực tuyến có sẵn để khảo sát người dân và doanh nghiệp trên địa bàn nhằm nhận diện đầy đủ tác động của dịch bệnh Covid-19 và đề xuất giải pháp cấp bách tháo gỡ khó khăn cho người dân, doanh nghiệp.

1. Tổng hợp kết quả điều tra xã hội học

Thực hiện phương án điều tra xã hội học, cuộc khảo sát được tích cực thực hiện, tính đến ngày 15/4/2020, số lượng phiếu phản hồi là 36.000 của người dân, học sinh, sinh viên và doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội, với ý kiến như sau:

1.1. Đối với người dân

Cuộc khảo sát thu hút được đông đảo người dân Hà Nội với nhiều ngành nghề khác nhau tham gia phản hồi phiếu điều tra xã hội học kịp thời, trách nhiệm:

(1) Cảm nhận của người dân về mức độ nghiêm trọng của dịch bệnh Covid-19: Từ kết quả điều tra xã hội học cho thấy, đến 99% người dân phản hồi, dịch bệnh Covid-19 nghiêm trọng và rất nghiêm trọng, trong đó, đa số đánh giá rất nghiêm trọng (81,7%).

(2) Ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 đến thời gian làm việc:

Kết quả khảo sát cho thấy: 67,8% ý kiến phản hồi đã thông tin thời gian làm việc bị giảm; 18,9% ý kiến phản hồi thời gian làm việc không thay đổi (các ý kiến này thuộc cán bộ, công chức, viên chức, học sinh, sinh viên, cán bộ hưu trí); 13,3% ý kiến trả lời thời gian làm việc trở nên nhiều hơn (đa số ý kiến này thuộc ngành nghề sản xuất, kinh doanh chế biến thực phẩm và thuốc, hóa dược, dược liệu, may mặc (khẩu trang), kinh doanh trực tuyến, một số thuộc lực lượng an ninh, quốc phòng…). Như vậy, đa số người dân sinh sống trên địa bàn Hà Nội đã và đang chịu ảnh hưởng của dịch bệnh Covid đến thời gian làm việc.

(3) Ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 đến thu nhập của gia đình:

Kết quả khảo sát cho thấy: có đến 89% người dân cung cấp thông tin khảo sát cho biết bị ảnh hưởng đến thu nhập của gia đình, trong đó: có 34,7% ảnh hưởng rất nhiều, 34% ảnh hưởng nhiều; thu nhập giảm ít 20,3%; chỉ có 10,5% không ảnh hưởng và 0,5% thu nhập tăng ít. Lý giải về sự ảnh hưởng này, thực tế cho thấy, ngoài số lao động có thời gian làm việc bị giảm trong các ngành ảnh hưởng trực tiếp, nặng nề do dịch bệnh Covid-19, hầu hết, người dân nhận thấy thu nhập của gia đình bị giảm do chi tiêu cho nhu cầu yếu phẩm tăng vàdo người dân chi tiêu cho mặt hàng để phòng, chống dịch bệnh. Bên cạnh đó, do nhu cầu tích trữ hàng hóa thiết yếu (cung tăng đột biến) đã đẩy giá sản phẩm tăng nhẹ trong khoảng thời gian ngắn. Vì vậy, đa số người dân tham gia khảo sát có cảm nhận thu nhập của gia đình bị giảm đi.

(4) Những vấn đề quan tâm hàng đầu của gia đình trong giai đoạn dịch bệnh Covid-19:

Dịch bệnh Covid-19 đã gây hoang mang, lo lắng, ảnh hưởng cuộc sống của người dân. Người dân tham gia khảo sát đã chia sẻ những vấn đề quan tâm hàng đầu của gia đình trong giai đoạn dịch bệnh Covid-19 như sau: đến 91,8% lo lắng cho sức khỏe cá nhân và gia đình; 48,4% lo lắng thu nhập không đảm bảo cuộc sống; 47,7% lo lắng việc học hành của con cái không đảm bảo; 36% lo lắng do việc hạn chế đi lại làm ảnh hưởng đến cuộc sống; 32,6% lo lắng cho vấn đề đảm bảo lương thực, thực phẩm; 30,8% lo lắng cho vấn đề chuẩn bị thuốc men, y tế; 25,5% lo âu do không được tham gia hoạt động vui chơi, giải trí.

(5) Về công tác phòng chống của dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn Hà Nội:

Kết quả khảo sát cho thấy, người dân tin tưởng và đánh giá cao công tác phòng chống của dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn thành phố Hà Nội (67,7% đánh giá rất tốt; 26,9% thực hiện tốt; chỉ có 0,8% cho rằng chưa tốt do một nơi, một số bộ phận, cá nhân trong thời điểm nhất định còn chủ quan, chưa thực hiện nghiêm quy định, chỉ đạo của chính quyền thành phố về công tác phòng chống của dịch bệnh Covid-19). Khi được hỏi về việc xử lý những vi phạm trong công tác phòng, chống dịch, có 98,5% người dân đồng tình với việc cần phải xử lý nghiêm những người phao tin đồn nhảm về dịch bệnh và các vấn đề có liên quan.

(6) Nhận thức của người dân về Covid-19:

Người dân đã nhận thức, nếu trong trường hợp bị chẩn đoán là nhiễm virus Covid-19, có đến 99,1% ý kiến trả lời sẵn sàng thực hiện phương án điều trị cách ly tối thiểu 14 ngày. Điều này cho thấy, người dân đồng thuận cao và ủng hộ biện pháp y tế về phòng, chống dịch bệnh Covid – 19. Bên cạnh những mặt tiêu cực của dịch bệnh, người dân cũng nhận thấy những mặt tích cực khác như: đến 68% cho rằng dịch bệnh rung lên hồi chuông cảnh báo con người trước sự tàn phá thiên nhiên, sự bất ổn trong cộng đồng xã hội…; 58,7% cho rằng mọi người trở nên gắn kết hơn, đoàn kết, chia sẻ, tự tôn dân tộc, khơi dậy ý chí, khát vọng vươn lên…; 55,6% ý kiến cho rằng, mọi người trở nên quan tâm đến thiên nhiên và môi trường sống hơn, ý thức giữ gìn vệ sinh công cộng được nâng cao.

Từ kết quả điều tra xã hội học có thể khẳng định, người dân tin tưởng và đánh giá cao công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn Hà Nội. Thành phố quan tâm chỉ đạo sát sao, huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị và xã hội, đa số người dân nhận thức được mức độ nghiêm trọng của dịch bệnh, có nhiều người cảm nhận bị ảnh hưởng đến thu nhập của gia đình, cuộc sống bị xáo trộn, tuy nhiên mọi người dân đều nhất trí, đồng tình, ủng hộ những biện pháp phòng, chống dịch bệnh Covid-19 hiện nay.

1.2. Kết quả điều tra xã hội học đối với học sinh, sinh viên

Từ kết quả khảo sát đối tượng là học sinh và sinh viên trên địa bàn Hà Nội cho thấy, Thành phố đã nỗ lực triển khai giải pháp dạy học trên truyền hình và các giải pháp hỗ trợ học từ xa, hỗ trợ học sinh tiếp cận bài giảng mới, ôn luyện kiến thức cũ, giúp các em đáp ứng các yêu cầu “đầu ra”, nhất là đối với học sinh cuối cấp. Tuy nhiên, việc thực hiện quyết định của Bộ Giáo dục và Đào tạo về rút ngắn thời gian và chương trình học, tổ chức học tập, đánh giá kết quả học tập trong điều kiện hiện nay là rất khó khăn, chưa đủ điều kiện đảm bảo. Chi tiết ý kiến của học sinh và sinh viên về công tác giáo dục và đào tạo như sau:

(1) Ý kiến đánh giá về loại kết nối mạng Internet và chất lượng học sinh, sinh viên học trực tuyến:chất lượng mạng tốt chiếm tỷ lệ 63,6%; chất lượng mạng kém chiếm 13,3%, ảnh hưởng đến việc tiếp thu kiến thức của học sinh, sinh viên.

Loại đường truyền

Chất lượng

Tỷ lệ (%)

Cáp mạng Internet của gia đình

Tốt

56,6

Chưa tốt, thỉnh thoảng gián đoạn

29,6

Chất lượng kém, hay bị gián đoạn

5,1

Mạng Internet của gia đình xung quanh

Tốt

 

Chưa tốt, thỉnh thoảng gián đoạn

5,3

Chất lượng kém, hay bị gián đoạn

4,8

Kết nối qua mạng 3G/4G di động

Tốt

7

Chưa tốt, thỉnh thoảng gián đoạn

3,2

Chất lượng kém, hay bị gián đoạn

1,6

Không có mạng Internet

hoặc mạng kém không thể truy cập

1,8

  1. Việc sử dụng thiết bị học trực tuyến:

Học sinh, sinh viên đã thông tin về việc sử dụng thiết bị học trực tuyến như sau: 41,9% sử dụng điện thoại cá nhân; 20,2% sử dụng PC/laptop; 4,1% sử dụng máy tính bảng cá nhân; 14,8% mượn điện thoại của người thân trong gia đình; 1,2% mượn máy tính bảng của người thân trong gia đình; 4,2% mượn máy tính PC/laptop của người thân trong gia đình… Như vậy, đến 20,2% người trả lời không được chủ động sẵn sàng về mặt thiết bị học tập, đồng thời việc mượn dùng chung các thiết bị của người thân trong gia đình, có thể gặp khó khăn, bị động trong việc học tập và có nguy cơ bị hack, mất an toàn an ninh mạng, lộ thông tin cá nhân, tài khoản, tài liệu bí mật trên thiết bị sử dụng.

(3) Việc sử dụng các phần mềm học trực tuyến giao tiếp với các thầy/cô: Học sinh, sinh viên thông tin về việc sử dụng các phần mềm học trực tuyến giao tiếp với các thầy/cô như sau: Zoom: 63,7%; Shub: 13,6%; Facebook: 20,1%; Zalo: 28,2%; Google: 4,7%; Hanoi Study: 8%; Microsoft Teams: 3,8%; Skype: 1,8%.

(4) Mức độ dễ dàng tiếp thu nội dung học qua học trực tuyến:đánh giá của học sinh, sinh viên về mức độ dễ dàng tiếp thu nội dung học qua học trực tuyến: Có 31,5% cho rằng rất dễ tiếp thu; 28,3% cho rằng dễ tiếp thu; 3,3% cho rằng rất khó tiếp thu; 5,5% cho rằng khó tiếp thu. Rà soát những ý kiến đánh giá khó tiếp thu và rất khó tiếp thu cho thấy, đều là ý kiến của những học sinh đang sinh sống khu vực ngoại thành, xa trung tâm, ít có điều kiện làm quen với phương pháp học tập trực tuyến, hơn nữa, do chưa được chuẩn bị kỹ lưỡng nên đã ảnh hưởng đến chất lượng học tập với phương pháp này.

(5) Nhận định về phần mềm sử dụng, âm thanh, hình ảnh học qua trực tuyến:37,4% nhận định rất tốt; 33% nhận định tốt; 1,4% nhận định rất kém; 3,4% nhận định kém.

(6) Về thiết bị máy móc (điện thoại/máy tính) có (hoặc mượn được) có cấu hình đủ tốt để đảm bảo cho việc học trực tuyến: nhận định các lớp học có khoảng 50% thiết bị máy móc không đủ đảm bảo để học trực tuyến chiếm khoảng trên 30%. Đây cũng là nguyên nhân chính của việc khó khăn cho việc tiếp thu bài giảng trực tuyến của học sinh.

(7) Cảm nhận về nỗ lực của thầy/cô trong việc giảng bài giảng trực tuyến:  Khi phản hồi thông tin về cảm nhận sự nỗ lực của thầy/cô trong việc giảng bài giảng trực tuyến: đến 68,3% người trả lời cho rằng các thầy cô đã rất nỗ lực (mức 5), 21,9% đã nỗ lực (mức 4) để có buổi giảng trực tuyến cho các em; chỉ có 1,7% có ý kiến chưa nỗ lực. Thực tế cho thấy, một số giáo viên gặp khó khăn trong phương pháp giảng dạy này, ngoài nguyên nhân chủ quan như khả năng thực hiện bài giảng trực tuyến, chủ yếu là do nguyên nhân khách quan mang lại do chưa có sự chuẩn bị kỹ lưỡng nhất là đối với một số học sịnh tại các cơ sở giáo dục trên địa bàn huyện ngoại thành.

(8) Cảm nhận về việc học trực tuyến qua chương trình truyền hình:

Tổng hợp ý kiến phản hồi của học sinh, sinh viên cho thấy, cảm nhận về việc học trực tuyến qua chương trình truyền hình: có 48,9% đánh giá chương trình, nội dung giảng dạy dễ hiểu; 38% nhận định âm thanh, hình ảnh rõ nét đảm bảo chất lượng; 33,1% cho biết để hiểu bài phải xem lại bài giảng đã phát (qua Web hoặc kênh youtube); đến 27,6% người trả lời cho rằng, gặp khó khăn trong việc tiếp thu và 7,1% cho rằng nội dung giảng dạy chưa phong phú.

Mặc dù, tỷ lệ đánh giá chương trình, nội dung giảng dạy dễ hiểu tương đối cao (48,9%),tuy nhiên hiệu quả của hoạt động này còn gặp một số hạn chế như: ý thức tự giác của học sinh – sinh viên trong việc học tập tại nhà, phụ huynh phải bố trí trang thiết bị và giành thời gian để kèm con học, khả năng tiếp thu bài giảng của học sinh không cao, khó tương tác với giáo viên khi cần thiết...

(9) Ý kiến về việc công nhận kết quả học tập trực tuyến: việc nhà trườngsẽ công nhận, sử dụng kết quả học tập trực tuyến để đánh giá hoàn thành môn học/học phần: 33,1% ý kiến rất đồng tình; 23,5% người trả lới đồng tình. Đến 19,1% ý kiến không đồng tình, trong đó: 9,9% rất không đồng tình; 9,2% không đồng tình; 24,3% ý kiến khác. Các ý kiến không đồng tình và rất không đồng tình cho rằng, do chưa có sự chuẩn bị kỹ lưỡng nên kết quả học tập có thể không thể hiện đúng năng lực của học sinh, chưa đảm bảo được tính khách quan, công bằng.

(10) Quan điểm của học sinh, sinh viên về chương trình đào tạo: ý kiến của học sinh, sinh viên về chương trình đào tạo hiện nay: 75,8% đề xuất nên rút gọn chương trình, tập trung vào một số môn chính; 44,5% đồng ý với đề xuất với các lớp cuối cấp nên giới hạn bớt khung ôn tập cho luyện thi cuối cấp.

(11) Tâm trạng của học sinh, sinh viên:phản hồi của học sinh, sinh viên thông tin về tâm trạng cá nhân: tâm trạng bình thường 48,1%; tâm trạng không rõ ràng, có đôi chút áp lực 28,9%; cảm giác chán nản chiếm 19,8%; muốn giảm thời gian học xuống 15,4%; muốn đi chơi 14,1%; đến 12,1% người trả lời chia sẻ cảm thấy bị áp lực. Kết quả khảo sát phản ánh được tâm trạng của lứa tuổi học sinh, sinh viên khi phải thay đổi hoàn cảnh đột ngột, chưa có sự chuẩn bị tâm lý thích ứng.

(12) Ý kiến của người dân về công tác giáo dục và đào tạo:ý kiến phản hồi của người dân đối với công tác giáo dục và đào tạo cho thấy: 67,7% cho rằng học trực tuyến là giải pháp tình thế để thầy và trò giữ liên hệ đảm bảo học sinh không bị mai một kiến thức nhưng cần có phương án tăng cường thời gian học chính thức tại lớp khi dịch bệnh kết thúc; 49,2% cho rằng phương án dạy trực tuyến tương đối hiệu quả và có thể chấp nhận trong giai đoạn dịch bệnh. Hà Nội là địa phương thực hiện hiệu quả phương pháp này; 33,8% đồng ý phương án dạy trực tuyến đối với tất cả các cấp học; 25,1% đồng ý giao, chấm bài qua mạng đối với tất cả các cấp học; 4,9% không đồng ý giao, chấm bài qua mạng đối với tất cả các cấp học, cho rằng không đảm bảo tính công bằng, minh bạch…

1.3. Kết quả điều tra xã hội học đối với doanh nghiệp

(1) Doanh nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh thuộc diện tạm dừng hoạt động:

Tổng hợp thông tin về doanh nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh thuộc diện tạm dừng hoạt động theo chỉ thị 15 và 16 của Thủ tướng (từ ngày 28/3 đến 15/4: đến 73% dừng sau khi có chỉ thị 15, 16 (trong đó 23,4% đã dừng từ trước khi có chỉ thị); khoảng 27% vẫn tiếp tục hoạt động. Trong đó: hoạt động như bình thường: 25,8%; hoạt động dưới mức 50% công suất: 69,4%; hoạt động trên mức công suất: 5,4% (4,2% vượt trên 50% công suất).

(2) Khó khăn của doanh nghiệp/ hộ sản xuất kinh doanh:

Những khó khăn doanh nghiệp/ hộ sản xuất kinh doanh gặp phải như sau: đến 39,9% không đủ khả năng trả lương cho nhân viên; 39% cho rằng cầu thị trường trong nước giảm; 32,1% không đủ khả năng trả tiền thuê mặt bằng kinh doanh, nhà xưởng; 29,3% áp lực nợ đến hạn phải trả; 25,3% khó khăn do áp lực về thị trường; 23,3% có khó khăn về vốn;19,3% gặp áp lực về thực hiện hợp đồng đã ký kết; 12,6% thiếu nguyên vật liệu đầu vào từ nguồn trong nước; 7,8% thiếu nguyên vật liệu đầu vào từ nguồn nhập khẩu; 6,8% xuất khẩu khó khăn. Những khó khăn trên đã khiến cho nhiều doanh nghiệp/ hộ kinh tế cá thể phải thu hẹp sản xuất kinh doanh hoặc tạm ngừng hoạt động. Các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, lưu thông, vận chuyển hàng hóa, hành khách và nhiều lĩnh vực dịch vụ như y tế, giáo dục, ăn uống, lưu trú, du lịch, giải trí, nhà hàng, khách sạn... bị ảnh hưởng trực tiếp, rõ rệt.

(3) Tình trạng về lao động gần đây của doanh nghiệp/ hộ sản xuất/ hộ kinh doanh: thông tin về tình trạng về lao động gần đây của doanh nghiệp/ hộ sản xuất/ hộ kinh doanh: đến 52,1% doanh nghiệp đã cho một số lao động nghỉ việc; giảm giờ làm đối với lao động là 39,6%; giữ nguyên lao động là 27,1%; chỉ có 0,9 % doanh nghiệp tăng giờ làm đối với lao động và 0,8% doanh nghiệp tuyển thêm lao động.Theo ước tính sơ bộ, khoảng 98% lao động khu vực du lịch, dịch vụ nghỉ việc; 78% lao động ngành vận tải, giầy da, dệt may bị giảm việc, giãn việc hoặc ngừng việc; 98% lao động hàng không tạm nghỉ việc. Số lao động đăng ký của các doanh nghiệp mới thành lập trong tháng 3 năm 2020 giảm so với cùng kỳ năm 2019.Người lao động đã và đang bị ảnh hưởng nặng nề, nhất là lao động giản đơn, thu nhập thấp, không thường xuyên. Đồng thời, dịch Covid-19 cũng ảnh hưởng lớn tới các đối tượng yếu thế khác như đối tượng bảo trợ xã hội, hộ nghèo, hộ cận nghèo... Dự báo trong tháng 4, tháng 5, lao động ngừng việc, mất việc làm còn gia tăng. Những tác động này sẽ tạo sức ép cho thị trường lao động khiến tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm tăng cao, có thể nảy sinh các vấn đề xã hội khác.

(4) Nhận định về doanh thu của doanh nghiệp trong năm 2020: doanh nghiệp tham gia khảo sát đã dự báo về doanh thu năm 2020 như sau: giảm rất nhiều: 55,3%; giảm nhiều: 31,1%; giảm ít: 9,1%; giữ vững: 3,5%; chỉ có 0,7 % doanh nghiệp nhận định sẽ tăng ít và 0,3% tăng nhiều. Doanh nghiệp nhận định doanh thu giữ vững và tăng thuộc lĩnh vực y tế, dược phẩm; bán hàng trực tuyến, thương mại điện tử; các đơn vị thương mại cung cấp sản phẩm thuộc lĩnh vực nông nghiệp truyền thống, sản phẩm hữu cơ, nông nghiệp công nghệ cao và một số ít là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực may mặc (đã tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu nên khá bền vững trước sự ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19).

(5) Về mức độ Thành phố hỗ trợ người dân và doanh nghiệp trong việc phòng chống Covid-19:đánh giá về mức độ Thành phố hỗ trợ người dân và doanh nghiệp trong việc phòng chống Covid-19:đến75% ý kiến đánh giá tốt và rất tốt, trong đó: 42% đánh giá rất tốt (mức 5), 33% đánh giá tốt (mức 4); chỉ có 5,8% đánh giá chưa tốt.

(6) Doanh nghiệp/ hộ sản xuất kinh doanh cần hỗ trợ trong giai đoạn dịch bệnh Covid-19:kiến nghị của doanh nghiệp/ hộ sản xuất kinh doanh với Trung ương và Thành phố hỗ trợ trong giai đoạn dịch bệnh như sau: đến 71,3% doanh nghiệp cần giảm các loại thuế, giãn thời gian thu thuế thu nhập cá nhân; 54,3% doanh nghiệp cần giảm các loại lãi suất và mở rộng các điều kiện cho vay vốn; 46,2% cần giãn thời gian nộp bảo hiểm xã hội; 35,5% doanh nghiệp cần chính sách kích cầu, mở rộng thị trường; 11,9% doanh nghiệp cần hỗ trợ tìm nguồn thay thế nguyên vật liệu.

  1. Đề xuất hỗ trợ doanh nghiệp trong dài hạn:  đề xuất giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp trong dài hạn như sau: đến 64,5% đề xuất có hệ thống thu thập và cung cấp thông tin tức thời cho doanh nghiệp/ hộ sản xuất kinh doanh; 58,9% doanh nghiệp đề xuất giảm quy trình và thủ tục hành chính; 32,1% ý kiến đề xuất hỗ trợ tìm nguồn nhập khẩu hàng hóa, nguyên liệu, vật tư, linh phụ kiện,… đầu vào phục vụ sản xuất; 25,8% đề xuất hỗ trợ phát triển thị trường xuất khẩu cho các mặt hàng tiềm năng.

2. Một số n hiệm vụ, giải pháp cấp bách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội, ứng phó hiệu quả với dịch bệnh Covid-19 đảm bảo phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, là Thủ đô quốc gia có nền kinh tế mở, Hà Nội tiếp tục đối mặt với tác động của dịch bệnh dịch bệnh. Tại Báo cáo “Kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 03 tháng đầu năm, nhiệm vụtrọng tâm công tác phòng chống dịch Covid-19 và các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội” cho thấy,  Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) quý I năm 2020 ước tính tăng 3,72% so với năm trước, là mức thấp nhất trong 3 năm gần đây và 03 kịch bản tăng trưởng ứng phó, giảm thiểu tác động của đại dịch Covid-19 phục vụ chỉ đạo, điều hành. Dự báo, dịch bệnh Covid-19 sẽ tiếp tục tác động toàn diện mọi mặt đời sống người dân Thủ đô. Hà Nội gặp nhiều khó khăn, thách thức để hoàn thành mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội, mục tiêu tăng trưởng theo kế hoạch đề ra. Bên cạnh nhiệm vụ phòng, chống dịch bệnh, Thành phố cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội, ứng phó hiệu quả với dịch bệnh Covid-19 để đạt mục tiêu “kép”. Cụ thể:

2.1. Nắm vững tình hình, kịp thời tuyên truyền, ổn định tâm lý để đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh

Thành phố cần tiếp tục thông tin kịp thời, chính xác về diễn biến dịch bệnh và công tác phòng, chống dịch, không để người dân hoang mang lo lắng, đồng thời đánh giá đầy đủ mức độ nghiêm trọng, không chủ quan, xem nhẹ,... Truyền thông giáo dục sức khỏe, nâng cao nhận thức của người dân để chủ động phòng bệnh và hợp tác với cơ quan y tế trong phòng, chống dịch. Thực hiện nhuần nhuyễn, hiệu quả 3 công tác: tổ chức chống dịch hiệu quả; kịp thời thông tin, tuyên truyền và tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lý mọi hành vi lợi dụng tình hình dịch bệnh để trục lợi; ổn định tâm lý, củng cố niềm tin, tạo đồng thuận xã hội trong việc chung tay tham gia phòng, chống dịch bệnh…

2.2. Không chủ quan, lơ là, tiếp tục huy động mọi nguồn lực để kiểm soát tốt dịch bệnh

Thành phố cần tập trung phòng, chống dịch bệnh theo nguyên tắc: ngăn chặn, hạn chế tối đa các nguồn lây nhiễm, nhất là từ nước ngoài; phát hiện sớm các trường hợp nhiễm bệnh; điều tra dịch tễ, phân loại, sàng lọc, cách ly chặt chẽ; khoanh vùng, dập dịch; điều trị kịp thời, hiệu quả. Triển khai xây dựng khu vực cách ly, bệnh viện dã chiến theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và Ban Chỉ đạo quốc gia về phòng chống dịch Covid-19. Quản lý, điều hành linh hoạt, sử dụng các hình thức họp trực tuyến, tránh tụ tập, tập trung đông người. Tạm dừng, hoãn các cuộc họp chưa cấp thiết và các chuyến công tác nước ngoài trong thời gian dịch bệnh để tập trung chỉ đạo điều hành công tác phòng chống dịch bệnh, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh.

2.3. Đẩy mạnh cải cách hành chính, tập trung phát triển và nâng cao hiệu quả dịch vụ công trực tuyến

Cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tập trung đơn giản hóa, cắt giảm các thủ tục nhằm giảm thời gian, chi phí cho doanh nghiệp. Tăng cường các nhóm thủ tục hành chính liên thông, rút gọn đầu mối, rút ngắn thời gian tiếp nhận, xử lý và trả hồ sơ. Đơn giản hóa thủ tục, quy trình, giấy phép thông quan, bảo đảm thông quan hàng hóa xuất, nhập khẩu nhanh hơn. Triển khai thí điểm việc mở rộng và tổ chức hình thức thu điện tử, không dùng tiền mặt đối với các khoản thu từ các cá nhân. Mở rộng các dịch vụ công trực tuyến mức độ 4; tăng cường tuyên truyền, nâng cao tỷ lệ sử dụng dịch vụ công trực tuyến đến người dân, doanh nghiệp; đảm bảo thời gian giải quyết thủ tục hành chính đúng hạn và sớm trước quy định cho doanh nghiệp và người dân; duy trì tỷ lệ 100% hồ sơ đăng ký doanh nghiệp thực hiện qua mạng…

2.4. Cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, kinh doanh, tăng cường đối thoại, hỗ trợ, tháo dỡ khó khăn cho doanh nghiệp

Thành phố cần nỗ lực tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, từ việc thành lập doanh nghiệp đến các điều kiện trong sản xuất, kinh doanh, nộp thuế...; thực hiện tốt Chương trình kết nối Ngân hàng - Doanh nghiệp, ổn định mặt bằng lãi suất; thúc đẩy doanh nghiệp liên kết, hỗ trợ lẫn nhau, sử dụng sản phẩm của nhau trong hoạt động sản xuất kinh doanh để giảm mức phụ thuộc vào nguồn lực từ bên ngoài cũng được đẩy mạnh; cần đổi mới, tái cơ cấu mạnh mẽ, thay đổi về quản trị, chiến lược phát triển, đổi mới cơ cấu, tìm kiếm sản phẩm mới, sản phẩm thay thế; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ và đầu tư nghiên cứu, phát triển sản phẩm có giá trị kinh tế cao hơn; thu hút đầu tư, hỗ trợ các doanh nghiệp trong sản xuất thiết bị y tế, bảo hộ sức khỏe, dược phẩm,…

2.5. Đẩy mạnh thu hút đầu tư, đẩy nhanh tiến độ giải ngân các dự án

Đối với các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước: Thành phố cần xây dựng kịch bản đầu tư công theo kịch bản thu ngân sách trên địa bàn Thành phố; rà soát các dự án đầu tư theo lĩnh vực thứ tự ưu tiên: y tế; an sinh xã hội; giáo dục và đào tạo; phòng chống thiên tai; phát triển nông nghiệp, nông thôn; đảm bảo môi trường; đảm bảo an ninh, trật tự xã hội; các công trình, dự án chuyển tiếp đầu tư có khả năng hoàn thành, bàn giao trong năm phát huy hiệu quả đầu tư. Thực hiện quyết liệt các giải pháp đẩy nhanh tiến độ thực hiện, giải ngân vốn đầu tư; bảo đảm giải ngân hết số vốn đầu tư công còn lại của năm 2019 và vốn kế hoạch năm 2020. Tuy nhiên, cần rà soát, đánh giá lại mức độ khả thi của dự án trước khi giải ngân; sớm khởi công, triển khai thực hiện các dự án đầu tư công quan trọng phù hợp với khả năng cân đối ngân sách của Thành phố; triển khai thực hiện một số cơ chế, quy chế thuộc thẩm quyền để đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án đầu tư…

Đối với các dự án hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và các dự án ngoài ngân sách cần tập trung giải ngân, tăng cường trách nhiệm của các thành viên Tổ công tác liên ngành của Thành phố, đẩy nhanh thủ tục chấp thuận chủ trương cho nhà đầu tư nghiên cứu lập dự án.

Đối với các dự án vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI):chủ động phối hợp các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài gặp khó khăn do dịch bệnh, cập nhật thường xuyên tình hình từ các hiệp hội và các doanh nghiệp lớn để có biện pháp hỗ trợ kịp thời. Đẩy mạnh xúc tiến, thu hút các dự án đầu tư nước ngoài; xúc tiến đầu tư các thị trường mới, các quốc gia tham gia Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương - CPTPP, Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực - RCEP, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Israel, Hiệp định thương mại tự do EU- Việt Nam – EVFTA, Hiệp định đầu tư EU- Việt Nam – EVIPA,...

2.6. Huy động mọi nguồn lực phát triển hiệu quả các ngành kinh tế

Về dịch vụ, du lịch:kích cầu thị trường trong nước; đẩy mạnh cung ứng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt, các hoạt động dịch vụ thương mại trực tuyến, các hoạt động logistics (giao thông, vận tải, lưu kho, bảo quản và giao nhận hàng hóa);… Tiếp tục thu hút đầu tư phát triển hạ tầng thương mại, siêu thị, chợ đầu mối,… Thúc đẩy phát triển và quản lý hiệu quả thương mại điện tử.Thúc đẩy quảng bá, xúc tiến đầu tư, thương mại, du lịch. Đảm bảo nguồn cung hàng hóa; tăng cường lưu chuyển hàng hóa với các địa phương trong cả nước.Tăng cường thu hút khách du lịch từ các khu vực có mức chi tiêu cao; liên kết sản phẩm du lịch với các địa phương trong cả nước; thu hút khách từ Châu Âu, Mỹ, Úc,… ngay sau khi dịch bệnh được kiểm soát.Bảo đảm an toàn và tổ chức tốt các sự kiện chính trị, văn hóa, thể thao trong năm 2020.

Về công nghiệp:đẩy mạnh đầu tư hạ tầng và lấp đầy các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn; thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp chế biến thực phẩm (để thúc đẩy gia tăng giá trị trong nông nghiệp, phát triển ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao, ngành có dư địa lớn của Thành phố), công nghiệp sản phẩm công nghiệp chủ lực, tiểu thủ công nghiệp - làng nghề,... Tìm kiếm thị trường thay thế nguồn cung cho đầu vào sản xuất của các ngành bị ảnh hưởng bởi Covid-19 (nhất là linh kiện điện tử, ô tô, xe máy, hàng dệt may,…). Tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa (nhất là thị trường Châu Phi), giảm phụ thuộc vào một thị trường.Đẩy mạnh sản xuất các mặt hàng thay thế nhập khẩu, những mặt hàng phục vụ thị trường trong nước, các mặt hàng phục vụ công tác phòng, chống dịch bệnh như: thiết bị y tế, dược phẩm, sản phẩm bảo hộ sức khỏe,…

Về nông nghiệp:đẩy mạnh các kế hoạch phát triển chăn nuôi, trồng trọt và phát triển các sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao, các mô hình ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sạch,... đảm bảo nhu cầu của người dân Thủ đô, xây dựng và phát triển sản phẩm để phát triển công nghiệp chế biến… Thực hiện tốt chương trình “Liên kết 4 nhà”; đẩy mạnh tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng. Kiểm soát sát sao, hiệu quả dịch tả lợn Châu Phi và tổ chức tái đàn.

2.7. Huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực

Triển khai thực hiện tốt, hiệu quả, nhan chóng, đảm bảo đúng đối tượng người dân và doanh nghiệp trên địa bàn theo các cơ chế, chính sách của Trung ương trên địa bàn, nhất là gói hỗ trợ 30 nghìn tỷ đồng để góp phần tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội; gói hỗ trợ tín dụng ngân hàng 250 nghìn tỷ đồng... cân đối ngân sách để triển khai thêm các gói hỗ trợ riêng của Thành phố, bảo đảm công khai, minh bạch, tăng cường tiết kiệm chi tiêu, bảo đảm chi đúng chính sách, đúng chế độ và kỷ cương ngân sách. Bổ sung vốn ủy thác qua Ngân hàng chính sách xã hội thành phố Hà Nội, đồng thời phân bổ và sớm giải ngân cho vay, giải quyết việc làm phục vụ phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống nông dân và cho vay giải quyết việc làm đối với người nghèo và các đối tượng chính sách. Nâng cao khả năng sử dụng vốn điều lệ Quỹ Đầu tư phát triển Thành phố cho vay đầu tư các lĩnh vực: nông nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế biến, nước sạch nông thôn, điện lực, môi trường, nhà ở xã hội, nhà ở tái định cư, y tế, giáo dục. Nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn ủy thác. Triệt để tiết kiệm chi thường xuyên ngân sách các cấp; thực hiện cắt giảm các khoản kinh phí đi học tập, trao đổi, công tác tại nước ngoài, các khoản chi cho các hoạt động kỷ niệm ngày lễ, các sự kiện văn hóa xã hội, hội nghị, hội thảo, tiếp khách…; đồng thời đẩy mạnh tiến độ giải ngân chi đầu tư xây dựng cơ bản, đẩy nhanh hơn tiến độ thực hiện các chương trình, kế hoạch đã đề ra từ đầu năm.

                                                                                                              Trích trong Bản tin Hà Nội hội nhập - Số 4/2020